mercredi 13 juin 2007

Hồ Chí Minh học Quốc Học khi mô?

Hồ Chí Minh học Quốc Học khi mô?
Tuệ Chương (Hoàng Long Hải)

Trước đây ít lâu, tôi gọi điện thoại thăm sức khỏe một ông cụ tuổi đã quá 90, một người cố cựu ở Huế. Qua cuộc điện đàm đó, tôi ngạc nhiên về sự minh mẫn của một người đã tuổi cao như thế. Trước đây, gần bốn mươi năm, tôi cũng đã từng được tiếp chuyện ông cụ một lần và cũng đã một lần ngạc nhiên về kiến thức của ông.

Hồi ấy, trong bữa tiệc đám cưới con trai trưởng của cụ, - người nầy là em rể tôi – khi khách trong bàn tiệc nói chuyện chơi rồi lan man qua sự xung đột Nga-Mỹ, nói về sự chia rẽ của nhân loại, ông cụ nói rằng sự chia rẽ là điều không thể tránh được. Theo nhận xét của ông cụ, hồi đó, ông khoảng hơn 50 tuổi, ông cho rằng trong đời sống thực tế, quyền lợi là nguyên nhân căn bản khiến con người ta đoàn kết hay chia rẽ, nhất là trong quan hệ giữa một quốc gia với một quốc gia. Trong gia tộc, trong tình anh em, người ta có thể hy sinh cho nhau vì lý do tình cảm, còn trong phạm vi thế giới, điều ấy khó có được. Từ đó, ông kết luận rằng Nga-Mỹ chỉ có thể đoàn kết khi loài người ở tinh cầu nầy bị một loài người ở một tinh cầu khác tấn công, hoặc giả trong nhân loại của chúng ta, có một thế lực thứ ba nổi lên chống cả Cộng Sản lẫn Tư Bản. Vì quyền lợi của mình, Nga Mỹ buộc lòng đoàn kết lại để chống kẻ thù chung.

Ngày nay, Thế Giới Cộng Sản không còn, nhưng cả Nga lẫn Mỹ đang đối diện với bọn khủng bố Hồi Giáo cực đoan thì Nga Mỹ phải đoàn kết vậy. Lời tiên đoán của ông cụ có phần nào đúng đó chăng?

Trong lần nói chuyện vừa qua, tôi vẫn còn mang trong tôi lòng ngưỡng mộ về kiến thức một ông cụ già nay đã trên 90. Trong câu chuyện, chúng tôi có nói qua về tình hình chính trị hiện tại ở Việt Nam, bỗng ông cụ hỏi tôi:

- “Tôi vẫn có cái thắc mắc. Sáchh báo ở đây (ở Việt Nam) cứ nói ông Hồ Chí Minh học trường Quốc Học. Tôi không tin như vậy. Anh ở bên đó, sách báo nhiều, anh xem thử có tài liệu nói rõ về việc nầy. Ông Hồ Chí Minh học Quốc Học khi mô?

Trước hết, xin nói về việc thành lập Trường Quốc Học.

Ngày 26 tháng 12 năm 1956, khi tôi đang còn là học sinh của trường nầy, thì trường tổ chức lễ “Kỷ Niệm 60 năm Trường Quốc Học” sau khi trường vừa đổi tên từ “Trường Trung Học Khải Định” thành “Trường Quốc Học Ngô Đình Diệm” (*). Buổi lễ được Tổng Thống Ngô Đình Diệm chủ tọa.

Theo bài diễn văn của cụ Ưng Trình (Một người từng làm thư ký riêng cho vua Bảo Đại) đọc trong buổi lễ hôm đó thì giữa thập niên 1890, ông Ngô Đình Khả nhà ở trước nhà thờ Phủ Cam, ngày ngày đi làm việc ở Tòa Khâm Sứ Trung Kỳ (ở đầu cầu Trường Tiền) hay đi làm việc trong Đại Nội (Tôi không chắc) phải đi ngang “Trại Lính Thủy” của Nam Triều, nay bỏ hoang, bèn nghĩ ra việc mở một trường dạy chữ Quốc Ngữ và tiếng Pháp cho sĩ tử tại địa điểm nầy.

Trước khi bị Pháp cai trị hoàn toàn, tước hết quyền bính, Triều Đình Huế có một đội Thủy Binh và doanh trại của họ đóng ngang với hoàng thành Huế, phía bên kia sông, là địa điểm trường Quốc Học hiện nay. Khi Pháp cai trị rồi, vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị, Pháp buộc Triều Đình Huế, giải tán đội thủy binh. Do đó, doanh trại nầy bị bỏ trống.

Trong buổi lễ kỷ niệm nói trên, những người học khóa đầu tiên, nếu lúc ấy còn sống, đều được mời đến dự. Các vị đó, đều già cả, có nhiều cụ chống gậy. Một trong những cụ đến dự lễ hôm đó, có ông Thị Ngô, hơn 70 tuổi, nhà ở phía trong cửa Đông Ba, sát ngã tư Mai Thúc Loan (Đường Đông-Ba) -Ngô Đức Kế (đường vào chợ Xép, thường gọi là đường Chợ Xép). Xóm chợ Xép “của tôi”, thường gọi là Cụ Hường (Ngô). Sau đây là một đoạn đối đáp giữa tôi và cụ Hường Ngô, là một chuyện có thực, tôi có ghi lại trong truyện ngắn “Cựu Học Sanh” (*) như sau:

“Một hôm, tôi đang ngồi sát cửa sổ, học bài, thỉnh thoảng nhìn ra ngoài trời thì cụ Hường đi xuống nhà cầu, ngang qua cửa sổ tôi, tay vẫn không chống gậy. Khi trở vào, cụ Hường dừng lại bên ngoài, hỏi tôi:

- “Anh học trường Quốc Học?”
Tôi đứng dậy, lễ phép:

- “Thưa cụ, vâng.”

- “Hai đứa cháu nội tôi (*) cũng hhọc ở Quốc Học. Ba nó cũng trường Quốc Học mà ngay chính tôi, cũng là “Cựu Học Sanh” trường Quốc Học.

Tôi nói:

- “Dạ, cháu biết cụ có học Quố?c Học. Năm ngoái, lễ kỷ niệm 60 năm “Trường Quốc Học Ngô Đình Diệm” (khoảng thời gian từ 1956 đến 1963, trường có tên như vậy-tg-), các cựu học sinh về dự đông lắm. Cháu thấy cụ có đi dự, mặc quốc phục, đi đầu, chung với mấy cụ già, cụ nào cũng chống gậy.”

Tôi nói các cụ già chống gậy là nói một cách tình cờ, thấy sao nói vậy. Cụ Hường, có lẽ nghĩ khác, nên cụ nói:

- “Bữa đó tôi hơi váng đầu, phẺ?i chống gậy. Bữa nay thì khỏe rồi.”

Rồi cụ nói tiếp:

- “Tôi học khóa đầu tiên.”

- “Thưa cụ, vậy hả? Chắc hồi đ?ó trường ốc chưa có gì?” -Tôi tò mò hỏi.

- “Hồi xưa, đó là trại lính thủ?y của Nam Triều.” -Ông cụ giải thích- “Sau khi Pháp đô hộ rồi thì lính thủy Nam Triều bị giải tán, còn lại mấy cái lán không. Cụ Ngô Đình Khả, thân sinh của cụ Ngô bây giờ, nhà ở Phú Cam, mỗi ngày đi làm việc ở Tòa Khâm Sứ hay trong Đại Nội, tôi không nhớ, ngang qua nơi này, thấy trại bỏ không, mới nảy ra ý kiến dùng làm trường Quốc Học, dạy cho sĩ tử học chữ Quốc Ngữ và chữ Tây. Khóa đầu tiên khai giảng năm 1896. Tôi học khóa đó.”

- “Hồi đó cụ thi vô có khó khôngg?” Tôi hỏi.

- “Có thi đâu!” - Cụ Hường trả? lời – thi đậu xong thì bắt học thêm ở trường Quốc Học. Vở với bút chì phải lận dấu trong bụng. May mà mặc áo dài ta nên dấu cũng dễ.”

Tôi ngạc nhiên hỏi:

- “Sao lại phải dấu?”

- “Ai cũng sợ mang tiếng là theo Tâ?y. Học chữ Quốc Ngữ, chữ Tây là theo Tây, chống lại Triều Đình, chống lại dân mình. Dân người ta thấy, người ta chê cười mình nên phải dấu.”

- “Vậy cụ Ngô Đình Khả đứng raa chủ trương mở trường Quốc Học, không sợ mang tiếng theo Tây sao?” -Tôi lại hỏi.

- “Gốc ông ta làm thông ngôn cho Tâ?y thì sợ mang tiếng gì nữa. Với lại nhiều khi tôi cũng nghĩ, cụ ấy hơn người, nhìn xa thấy rộng, không thể bo bo với mớ chữ Nho xưa mà cứu nước được. Thời thế đã đổi thay. Anh không học thơ của cụ Trần Kế Xương sao?” - Rồi ông cụ đọc tiếp:

Cái học nhà Nho đã hỏng rồi,
Mười người theo học, chín người thôi

“Thơ văn của ta mà không học là dốt lắm đó. Biết chưa?”

Nói câu đó, cụ Hường gằn giọng, tỏ ý khó chịu về cái dốt của học trò ngày nay. Tôi vội vàng nói:

- “Thưa cụ, cháu có học. Trong chư?ơng trình lớp đệ lục (lớp 7 bây giờ -tg-) đã có rồi. Bài thơ đó cháu cũng thuộc.”

- “Vậy là tốt. Trường ni là nơi đào tạo nhiều nhân tài, nhiều người nổi tiếng. Học ở đó là để sau làm việc “ích quốc lợi dân”. Biết chưa?”

Nói xong, cụ Hường bỏ đi vào nhà, chẳng thèm chào tôi. Đó là lần đầu tiên mà cũng là lần chót cụ nói chuyện với tôi trong khoảng thời gian tôi ở đây hơn ba năm.”

(*) Hai người cháu nội nầy, khi tôi học lớp Đệ Nhất, họ cùng học một lớp với tôi. Đó là chị Trần Thị Thanh Hương và em chị là anh Trần Văn Viên)
(“Cựu Học Sanh”, “Viết Về Huế” Tập 1. Trang 186-187-189)

Qua đoạn văn trích dẫn ở trên, tôi muốn trình bày với độc giả hai điều:

Thứ nhất là việc vào học trường Quốc Học:

Cuối thập niên 1890, tuy Pháp đã đô hộ nước ta, nhưng tinh thần chống Tây của người Việt chúng ta còn cao, còn mạnh mẽ, tầm nhìn về thế giới chưa rộng nên nhiều khi cực đoan. Người ta không làm những điều gì, việc gì có liên hệ xa gần đến Tây để có thể bị gọi là theo Tây. Dĩ nhiên không đi lính cho Tây, không theo đạo của Tây (đạo Thiên Chúa), không học tiếng Tây, ăn mặc hoặc cắt tóc theo kiểu Tây. Mãi đến khi Nhật Bản thắng Nga trong trận Đối Mã (1905), người Việt Nam mới tỉnh cơn mê. Trước kia, cứ tưởng cái gì của Tàu cũng nhất thiên hạ. Khi một phần hạm đội Hắc Hải của Nga bị Nhật đánh bại, chạy trốn ở vịnh Cam Ranh, người Việt Nam tò mò đến đó xem tàu Nga mới lắc đầu lè lưỡi cho rằng tàu bè súng ống như thế mà còn bị Nhật đánh bại, đủ biết nhờ Minh Trị Thiên Hoàng canh tân, nước Nhật ngày nay hùng mạnh như thế nào?! Những sĩ phu ở Huế hồi ấy như cụ Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Trần Quí Cáp, đi xem tàu Nga về, đều trầm trồ khen ngợi việc nước Nhật canh tân. Đầu thế kỷ 20 mới có “Phong Trào Duy Tân”. Chỉ một việc cắt tóc ngắn, không chừa “búi tó” như ngày xưa, các cụ cũng phải làm vè để cổ động dân chúng:

“Phen nầy cắt tóc đi tu,
Tụng kinh Độc lập ở chùa Duy Tân.”

Phong trào Duy Tân là một sự thức tỉnh của người Việt Nam đầu thế kỷ 20, khi “thần tượng” Trung Hoa sụp đổ vì chính nước nầy đang bị các cường quốc xâu xé mà không có cách chi chống lại được. Ý tưởng phải “Duy Tân” không những được cổ động và gây ảnh hưởng trong dân chúng mà còn gây ảnh hưởng ngay cả trong Triều Đình Huế. Các vị vua khi đặt niên hiệu đều chọn theo một ý nghĩa nào đó. Năm 1908, khi vua Thành Thái bị truất phế và thái tử Vĩnh San lên ngôi thì vua mới chọn niên hiệu là Duy Tân. Điều đó không hẳn là không do ảnh hưởng từ tư tưởng Duy Tân nước nhà đang được vận động trong dân chúng.

Về việc lập Duy Tân Hội, sách “Phan Bội Châu Niên Biểu” chép như sau:

“Bắt đầu khai hội từ buổi sáng qua chính trưa tan hội. Tên Hội chỉ người trong hội biết (a) không lập sổ sách, không biên chép họ tên, chương trình kế hoạch chỉ miệng trao lòng nhớ mà thôi. Đặt Kỳ Ngoại Hầu (Cường Để –tg) làm hội chủ, hễ lúc nào xưng hô chỉ gọi bằng ông chủ, cấm không được hở chữ “Hội” ra. Hội viên trọng yếu lúc đó có những người như Nguyễn Hàm, Phan Bội Châu, Trịnh Hiền. Lê Vũ, Đặng Tử Kính, Đặng Thái Thân và các người khác nữa.

(Trong phần ghi chú (a) ở trên, tác giả ghi rằng theo cuốn “Tự Phán” cũng chính của Phan Bội Châu viết thì “tên hội là Duy Tân Hội mà chương trình mãi đến năm 1906 mới được thảo ra thành văn và in vài trăm bản để phổ biến. Chương trình đến tháng 10 năm Tân Hợi (1911) thì tuyên bố thủ tiêu và tên hội đổi thành Việt Nam Quang Phục Hội)
(Phan bội Châu Niên Biểu- trang 37)

Xem thế, cái tinh thần chống Pháp của dân ta lúc bấy giờ khá cực đoan – rõ nhất là trong phong trào “Bình Tây Sát Tả” – thì việc dựng nên trường Quốc Học hồi đó cũng như việc theo học trường nầy đều bị dân chúng lên án là theo Tây, là phản triều đình, phản quốc cả.

Sách “Hồ Chí Minh, Con người và Huyền thoại” của Chánh Đạo viết:

“Những người tốt nghiệp các khoa thi Hương, thi Hội phải qua một giai đoạn huấn luyện tiếng Pháp và quốc ngữ trong khi chờ đợi được bổ nhậm. Đi tiên phong trong chiến dịch chuyển tiếp nầy, dĩ nhiên, là kinh đô Huế. Năm 1896, người Pháp thiết lập trường Quốc Học để dạy dỗ con cháu các hoàng tử, tôn thất, ấm tử các quan lớn, và một số “hậu bổ” (Tức các Tiến sĩ, Phó Bảng hoặc Cử Nhân đang chờ bổ nhậm.)”
(Hồ Chí Minh, Con người và Huyền thoại- trang 78)

Theo cách “tuyển sinh” như trên thì Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc – thân phụ ông Hồ Chí Minh – phải học trường hậu bổ, sau khi ông đậu Phó Bảng năm Canh Tý (1901) “nhưng chẳng hiểu tại sao Huy không được xếp vào hàng “hậu bổ”và nhập học trường Quốc Học như bạn đồng khoa Phan Chu Trinh. Mãi tới cuối năm 1904, Sắc mới được một chức quan nhỏ ở Bộ Lễ. (Sđd- trang 48)

Tuy nhiên, con trai lớn của Sắc, là Khiêm, anh của Hồ Chí Minh, theo sách đã dẫn, lại được “đặc cách” theo học trường Quốc Học vì là ấm sinh, mặc dù theo điều kiện nhập học như nói ở trên phải là ấm sinh con quan lớn mới nhập học được. Bấy giờ, Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ ông Khiêm chỉ mới làm một chức quan nhỏ ở Bộ Lễ.

Anh em ông ông Hồ Chí Minh chẳng đỗ đạt bằng gì cả. Ngay cả bằng yếu lược (tốt nghiệp lớp 3) để có thể xin vào trường Quốc Học, anh em ông cũng không có nốt. Còn thi theo lệ xưa, thì mãi tới 1916 ở Huế mới là khoa thi cuối cùng.

Tôi có đặt vấn đề nầy với Ông Lê Tùng Minh, Phó Tiến Sĩ Sử Học, thì ông cũng đoán – chỉ đoán mà thôi – có thể nhờ thế lực ông Hồ Sĩ Tạo – mà Hồ Chí Minh có được sự đặc cách ấy. Theo tài liệu mới phát hiện gần đây, Ông Hồ Sĩ Tạo chính là cha ruột của ông Nguyễn Sinh Sắc. Cũng lý do đó, có người cho rằng, khi đổi từ họ Nguyễn (Nguyễn Tất Thành) ra họ Hồ (Hồ Chí Minh), ông Hồ muốn trở lại với cái họ gốc của ông.

Năm 1911, trường Hậu Bổ mới được thành lập ở Huế, có thể việc tuyển sinh dễ hơn, nhưng lúc đó, sau khi cha bị cách chức năm 1908, ông Hồ Chí Minh đã lưu lạc vào Nam và qua Pháp rồi.

Nói chung, dù có sợ bị dân chúng chê trách là theo Tây hay không, dù tập ấm con quan hay có bằng cấp nầy kia, xem ra không có cách nào Ông Hồ Chí Minh được theo học ở Trường Quốc Học cả.

Về việc mở Trường Quốc Học:

Sau này, tình thế đổi thay, việc canh tân nước nhà theo các nước Tây phương là điều bắt buộc nên người ta mới nhớ công lao ông Ngô Đình Khả là người có công mở ra trường Quốc Học. Tuy nhiên, hồi đó, ông Ngô Đình Khả mở ra ngôi trường đó là vì lý do gì?

Từ chức “Thông Sự” rồi lên “Trưởng Phòng Thông Sự” ở Tòa Khâm Sứ Huế, Ngô Đình Khả được chuyển qua ngạch quan lại Nam Triều, đời Thành Thái, ông lên tới chức Thượng Thư Bộ Lễ (Dư luận Huế trước đây cũng cho rằng những người xuất thân bên tòa Khâm Sứ qua làm quan Nam Triều thường nhận nhiệm vụ do Pháp giao phó là kiểm soát và kềm kẹp Nam Triều). Vì chống lại việc Pháp đày vua Thành Thái (Đày vua không Khả), con đường hoạn lộ của ông Ngô Đình Khả đi xuống từ khi vua Thành Thái bị truất ngôi. Như thế, xem ra ông Ngô Đình Khả có tư cách cao hơn ông Diệp Văn Cương, gốc miền Nam, cũng là thông ngôn được Pháp phái qua làm việc với Nam Triều. Người ta có thể nói ông Ngô Đình Khả lập ra trường Quốc Học để đào tạo một lớp quan lại có khả năng phục vụ cho chính phủ Bảo Hộ, nhưng ai lại có thể phủ nhận điều ông là người biết nhìn xa trông rộng, nhất là khi còn trẻ, ông đã được các cha cố đưa qua học ở Pénang (Mã Lai). Dù Pénang cũng là một thuộc địa, nhưng những chuyến đi xa khiến ông có thể có được nhãn quan xa hơn những người chỉ quanh quẩn trong nước? Dù theo đạo Thiên Chúa, được du học, qua đó, ông đã làm việc cho Pháp từ rất sớm, nhưng với việc chống lại việc đày vua Thành Thái, ai dám bảo ông là người không có lòng ái quốc, khiến cho người Huế có câu “Đày vua không Khả” để ca ngợi ông?!

Tuy nhiên, nếu như người Huế và đám quan lại triều đình hồi bấy giờ có nhãn quan “nhìn xa trông rộng” như ông Ngô Đình Khả, biết “Duy Tân” để nước nhà có thể phục hồi sức mạnh mà giành độc lập, hay biết chạy “theo thời thế” để ra làm quan với giặc Pháp, mở trường dạy tiếng Pháp và quốc ngữ, thì mãi đến đầu thế kỷ 20, ở Huế mới có trường Pháp Nam và học sinh học chưa quá bậc tiểu học.

Cũng theo sách nói trên của ông Chính Đạo, “Tài liệu văn khố Pháp về An-Nam còn sót lại ở Aix-en Provence cho biết một học sinh tên Nguyễn Sinh Côn, gốc Nghệ An, được đặc ân vào trường Quốc Học Huế từ niên khóa 1908-09. Trò Côn nầy trước đó đã học trường Pháp Nam Thừa Thiên.”

Có thể đây là tia sáng cần soi lại cho kỹ. Cách viết chữ quốc ngữ hồi bấy giờ chưa thống nhất, thường chịu ảnh hưởng cách viết của các cha cố viết chữ quốc ngữ, nhất là hay dùng chữ K thay cho chữ C. Chúng ta đã thấy Hồ Chí Minh viết “Đường Kách Mệnh” khi ông còn ở Quảng Châu, và tên ông Lê Bá Khanh và Lê Bá Kông khi hai ông nầy theo học ở Hồng Kông (*). Do đó, cái tên Nguyễn Sinh Cung có viết thành tên Nguyễn Sinh Côn cũng không có gì lạ. Tên Côn cũng không phải là tên hiếm có trong số dân chúng Việt Nam. Tiếng địa phương, còn gọi Cung bằng Cuông để tránh “phạm húy” – tên một người lớn tuổi, có danh tiếng ở trong làng chẳng hạn. “Kỵ tên” là một phong tục rất phổ biến của người Việt.

Có thể ông Hồ Chí Minh đã được đặc cách vào học Trường Quốc Học, nhưng cũng ngay năm ấy, Hồ Chí Minh bỏ học vì thân phụ ông bị cách chức. Vì gia biến, ông phải bỏ học và lưu lạc vào Nam.

Nói chung, Hồ Chí Minh có thể chưa bao giờ là học sinh trường Quốc Học, hoặc có thể có một thời gian rất ngắn, ông ta học ở đó. Thời gian học ấy quá ngắn ngủi; hoặc tuy đã có tên nhưng chưa kịp đi học thì đành bỏ vì gia biến, nên chưa bao giờ Hồ Chí Minh tự nhận ông có học Trường Quốc Học để trường nầy có thể đào tạo ông trở thành một nhân tài hữu ích cho đất nước, như danh tiếng ngôi trường đã có vậy.

Điều đó cũng không chắc đúng. Một người như ông Hồ Chí Minh, có thể ông không cần cái hư danh ấy. Điều quan trọng hơn, thời gian ấy, vào học Trường Quốc Học là học chữ Tây, ra làm quan với Tây, là theo Tây. Khi đã là một người biết lợi dụng chữ yêu nước, một “Nguyễn Ái Quốc”, chống Pháp giành độc lập, ông muốn tránh cái tiếng xấu theo Tây nên đã dấu đi câu chuyện ông có theo học Trường Quốc Học vào hồi cuối thập niên 1910, cũng như ông đã dấu việc ông xin vào học Trường Thuộc Địa vậy.

Riêng về đám ong kiến bu quanh Hồ Chí Minh, chẳng biết mô tê gì cứ phịa bừa ra là ông ta có học Trường Quốc Học. Họ không biết rằng đám sĩ tử vào học Quốc Học hồi cuối thập niên 1890 và thập niên 1910 so với đám học sinh vào trường Quốc Học sau khi dân ta đã thức tỉnh nhờ Phong Trào Duy Tân, xét về mặt tinh thần, họ khác nhau rất xa./


Tuệ Chương (hoànglonghải)
(Nguồn: www.viet.no - 30/10/2005)

(*) Xin xem truyện ngắn “Nhà Cách Mạng” cùng tác giả, nói về việc đổi tên trường nầy.
(*) Những người già ở Huế, thường dùng chữ “a” thay thế cho chữ “i” trong các danh từ sau đây: Học chánh thay vì Học chính, Chánh phủ thay vì Chính phủ, Học sanh thay vì Học sinh. Cách phát âm như thế còn biểu lộ tính bảo thủ của họ.
(*) Thân phụ hai ông nầy là cụ Lê-Đức Thoan, làm tài xế xe lửa theo đường Hà Nội-Lào Kay và thường giúp đỡ các cha cố khi họ qua lại theo đường từ Hồng Kông, qua Quảng Châu mà xuống Bắc Việt Nam. Qua sự quen biết đó, ông Lê Đức Thoan đã gởi hai con trai của ông theo học ở Hồng Kông.

Aucun commentaire: