samedi 30 juin 2007

Việt Gian CS Phải Trả Lại Quyền Bổ Nhiệm Giám Mục

Việt Gian CS Phải Trả Lại Quyền Bổ Nhiệm Giám Mục

Việt Gian Cộng Sản Phải Trả Lại Quyền Bổ Nhiệm Giám Mục Cho Vatican!
Việt Gian Cộng Sản Phải Trả Lại Tên Saigon!
Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ



Tại sao lại phải tẩy trừ huyền thoại Hồ Chí Minh? Tại sao Việt gian cộng sản phải trả lại quyền bổ nhiệm giám mục cho tòa thánh Vatican? Tại sao lại gọi Hồ Chí Minh là Việt gian? Xin mời quý bạn đọc theo dõi buổi nói chuyện của linh mục Nguyễn Hữu Lễ trên đài truyền hình SBTN, và chúng tôi xin mạn phép trích lại để quý bạn đọc tham khảo.

Phần Audio

Tốc Độ 56K Modem
Lấy Xuống Để Nghe
Xin bấm vào đây để nghe
Xin bấm vào đây để lấy xuống nghe

Phần Video
Xin bấm vào đây để xem phần 1
Xin bấm vào đây để xem phần 2
Xin bấm vào đây để xem phần 3
Xin bấm vào đây để xem phần 4

http://www.vietnamexodus.org/vne/modules.php?name=News&file=article&sid=2100

jeudi 28 juin 2007

Thêm Một Thành Tích của Hồ Chí Minh

Thêm Một Thành Tích của Hồ Chí Minh

Cuối năm 1924 khi Nguyễn Ái Quốc tới Trung Quốc để nhận công tác trong Bộ Phương Đông của Quốc Tế Cộng Sản bên cạnh phái viên của chính phủ Liên Xô Borodine với vỏ bọc "không đủ giỏi tiếng Nga để hiểu Borodine, cũng không đủ giỏi tiếng Tàu phiên dịch" (ông để hiểu người Tàu), họ Nguyễn được nhà cách mạng Việt Nam nổi tiếng Lâm Đức Thụ đón về ở chung trong ngôi nhà của gia đình vợ Lâm Đức Thụ là Lý Huệ Quần. Gia đình bà Lý Huệ Quần là một gia đình giàu có tại Quảng Châu. Ngôi nhà của gia đình bà về sau trở thành Huệ Quần Y Quán, tại đường Văn Minh, Quảng Châu, nơi thế hệ cách mạng đầu tiên của Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội lấy làm nơi cư ngụ và huấn luyện lý thuyết cách mạng và công tác vận động quần chúng.

Ông Hồ Chí Minh đã ở đây từ năm 1925 đến năm 1927. Gia đình bà Lý Huệ Quần đã nuôi nấng các chiến sĩ cách mạng Việt Nam suốt thời gian này. Số Nguyễn Ái Quốc cũng nhiều may mắn, đi đâu cũng gặp quý nhân phù trợ. Bà Lý Huệ Quần có cô em gái tên là Lý Huệ Khanh. Chàng thanh niên Việt Nam Nguyễn Ái Quốc đem lòng yêu mến cô gái Trung Quốc này và giữa hai người một mối tình đã nảy nở dưới sự bảo trợ của cả Lâm Đức Thụ lẫn Lý Huệ Quần. Hai người yêu nhau say đắm và họ có với nhau một đứa con gái. Lý Huệ Khanh về sau gia nhập Đảng cộng sản Trung Quốc, rồi bị Quốc Dân Đảng Trung Hoa giết trong vụ biến Quảng Châu Công Xã (12.12.1927).

Theo lời kể của những nhà cách mạng cộng sản thuộc thế hệ đầu tiên thì từ đó Nguyễn Ái Quốc mới có bí danh Lý Thụy, chắc hẳn để ghi lại kỷ niệm với người đã khuất. Từ bí danh này các thanh niên cộng sản Việt Nam được Lý Thụy huấn luyện mới mang họ Lý của đàn anh như Lý Quý, Lý Tự Trọng, Lý Phương Thuận, Lý Phương Đức...

Một cuộc tình lãng mạn thật đẹp !

Nhưng tiếc thay, bên cạnh mối tình đẹp này lại có cái không đẹp. Đó là tình bạn giữa Lý Thụy và Lâm Đức Thụ. Giống như Phan Văn Trường đã giúp Nguyễn Ái Quốc ở Paris, họ Lâm đã đón họ Nguyễn về ở với gia đình vợ mình, để rồi trở thành hai anh em đồng hao, cơm bưng nước rót. Nghĩa này tình ấy phải nói rằng rất sâu nặng.

Những người biết tình bạn giữa hai người kể rằng Lâm Đức Thụ đã giúp đỡ Nguyễn Ái Quốc rất nhiều không những về công tác mà cả về nhận thức. Cụ Nguyễn Hải Thần đánh giá Lâm Đức Thụ rất cao "Thụ giỏi hơn Vương (Nguyễn Ái Quốc) nhiều lắm". Tiếc rằng nhân chứng này không để lại những ghi chép cho hậu thế. ở đây kẻ viết bài này chỉ ghi lại lời nói của cụ mà một hậu sinh nghe được để gợi ý cho các nhà nghiên cứu tìm hiểu thêm.

Chẳng thế mà trong Tổng Bộ Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, Lâm Đức Thụ được anh em tín nhiệm bầu làm Thư ký thường trực, điều hành mọi công việc. Ông đầu xứ Viễn (Lâm Đức Thụ tên thật là Nguyễn Công Viễn, thi đỗ đầu xứ nên mới có tên gọi là đầu xứ Viễn, tức Trương Béo, tức Hoàng Chấn Đông) con trai cụ tú tài Nguyễn Hữu Đàn, cháu nội nhà nho yêu nước Nguyễn Mậu Kiến, là một trong mấy người sáng lập Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội (1925), tổ chức cách mạng thoát thai từ tổ chức Tâm Tâm Xã (1923), cũng lại do Lâm Đức Thụ sáng lập cùng với Hồ Tùng Mậu và Lê Tùng Sơn. Trong tập sách không chắc có được đầy đủ (nghi ngờ có sự cắt xén) "Các Văn Kiện Về Lịch Sử Các Tổ Chức Tiền Thân Của Đảng" do Ban Nghiên Cứu Lịch Sử Trung ương Đảng xuất bản tại Hà Nội trong thập niên 60 và 70 có nhiều chỗ còn tên Lâm Đức Thụ.

Đọc thì thấy Lâm Đức Thụ là người tài ba thế nào. Thế mà sau khi đảng cộng sản Đông Dương được thành lập thì người sáng lập và rèn luyện là "đồng chí Vương" đã đang tâm gạt ngay người anh em chí cốt ra ngoài để độc chiếm ngôi bá chủ trong tổ chức. Tệ hơn nữa, Lâm còn bị Nguyễn vu cho là chỉ điểm, mật thám, tay sai thực dân đế quốc... để rồi kết thúc cuộc đời trước họng súng của dân quân vào năm 1947 tại quê hương Vũ Trung, huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình. Một nhân chứng của vụ "xử lý" đồng chí một cách tàn nhẫn này kể lại :"Ông Lâm Đức Thụ mặc áo the thâm bình thản đứng trên thềm chờ những người tới giết mình. Khi họ chĩa súng vào ông, ông điềm đạm hỏi :"Ai sai các anh đến giết tôi ?". Họ nói "Cấp trên !" "Là ai?" Họ không nói. Ông bảo:"Thế thì bắn đi !". Họ nổ súng".

Nhật Quang

http://www.lmvntd.org/dossier/9705_hcm.htm

Bức Thư Mật Liên Quan Đến Hồ Chí Minh

Bức Thư Mật Liên Quan Đến Cuộc Đời Của Hồ Chí Minh

Ðăng ngày 14 tháng 03 năm 2003
(Tài liệu mật từ Văn Phòng Chủ Tịch Quốc hội Cộng Sản Việt Nam. Nguyên văn bức thư này được giữ tại Văn Phòng Chủ Tịch Quốc Hội Cộng Sản Việt Nam.)

Cao Bằng ngày 29 tháng 7 năm 1983.

Kính gởi Ông Nguyễn hữu Thọ Chủ tịch quốc hội nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam

Tôi là một thương binh đã 25 năm nay vô cùng đau khổ, không dám hé răng với ai. Không phải chỉ vì vết thương bom đạn, chiến tranh mà là một vết thương lòng vô cùng nhức nhối. Nay tôi xắp được từ giã cái xã hội vô cùng đen tối này đi sang thế giới khác, tôi phải chạy vạy rất khó khăn mới viết được bức thư này lên Chủ tịch, hy vọng ông còn lương tri, lương tâm đem ra ánh sáng một vụ bê bối vô cùng nghiêm trọng tàn ác, mà người vợ chưa cưới của tôi là một nạn nhân. Nay tôi hy vọng những tên hung thủ được lột mặt nạ trước công chúng, không để cho chúng ngồi trên đầu trên cổ nhân dân.

Nguyên từ năm 1954 tôi có người yêu tên Nguyễn thị Vàng, 22 tuổi quê làng Hà Mạ, Xã Hồng Việt, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng. Cô Vàng có người chị họ là Nguyễn thị Xuân, tên gọi trong gia đình là cô Sang tức Minh Xuân. Tôi nhập ngũ đi bộ đội cuối năm 1952. Cô Vàng và cô Xuân tình nguyện vào công tác hộ lý trong một đơn vị quân nhu. Được mấy tháng sau ông Trần Đăng Ninh, Tổng cục trưởng Tổng cục hậu cần mấy lần đến gặp cô Xuân. Đầu năm 1955 thì đem xe tới đón về Hà Nội, nói là để phục vụ Bác Hồ. Được mấy tháng sau thì cô Xuân cũng xin cho cô Vàng về Hà Nội, ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm với cô Xuân và cô Nguyệt con gái ông Hoàng văn Đệ cậu ruột cô Xuân.

Đã luôn 2 năm tôi chỉ được tiếp thư chứ không được gặp cô Vàng, người yêu của tôi. Nhưng khoảng tháng 10 năm 1957 tôi bị thương nhẹ được đưa về điều trị tại bệnh viện Huyện Hoà An. Chúng tôi vô cùng sung sướng lại được gặp nhau. Trong một tuần lể cô Vàng kể lại mọi nỗi đau xót cô đã gặp phải cho tôi nghe. Tôi xin ghi lại tỉ mỉ những lời cô Vàng tâm sự với tôi, mà không bao giờ tôi có thể lãng quên đi được. Vàng kể :

Đầu năm 1955 cô Xuân được về gặp Bác Hồ. Bác Hồ định lấy cô Xuân làm vợ chính thức. Mấy tháng sau chị Xuân xin cho em cùng về ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm, Hà Nội. Còn tầng dưới thì cho ông Nguyễn Quý Kiên, Chánh văn phòng Thủ tướng phủ ở. Vì các lãnh đạo không cho chị Xuân cùng ở với Bác trên nhà chủ tịch phủ, giao cho ông Trần Quốc Hoàn, Bộ trưởng bộ Công an trực tiếp quản lý chị Xuân, cho nên chị Xuân mới được đem về ở 66 Hàng Bông Nhuộm, nhà của Công an.

Cuối năm 1956 chị Xuân sinh được một cậu con trai. Cụ Hồ đặt tên là Nguyễn Tất Trung. Em có nhiệm vụ bế cháu.

Ông Bộ trưởng Công an có nhiệm vụ quản lý chị Xuân nên thường đến luôn. Nhưng một buổi tối vào khoảng mồng 6 hay mồng 7 tháng 2 năm 1957, ông Hoàn tới, ngồi nói chuyện vu vơ một tí rô i nắm tay chị Xuân, kéo vào một cái buồng xép, từ cầu thang đi lên, vật chị Xuân lên một cái giường nhỏ, định hãm hiếp. Chị Xuân bị nhét khăn vào miệng nhưng vẫn ú ớ la lên. Em hoảng sợ la tru tréo. Còn chị Nguyệt sợ quá, rúm người lại ngồi một góc tường. Nghe tiếng cửa sổ nhà dưới xô xầm vào tường, lão Hoàn bỏ chị Xuân ra, rút khẩu súng lục trong túi áo hoa lên nói to : "Chúng mày im mồm, không ông cho chết hết" rồi hầm hầm chạy xuống thang ra ô tô chuồn.

Chị Xuân thất thểu đi ra khóc nức nở, ôm choàng lấy em. Em hỏi nó nắm tay chị, sao chị không văng vào mặt nó để nó dắt đi ? Chị Xuân vừa nức nở vừa nói : Đau khổ nhục nhả lắm. Chị phải nói hết để các em tha tội cho chị. Từ hôm chị mới về nhà này, có một bà già độ 60 tuổi ở một buồn dưới nhà, vợ một cán bộ Công an đã chết, lên thân mật nói chuyện với chị rằng : Sao cô ở đây một mình ? Bạn đàn bà để tôi nói thật cho cô biết. Cái lão đem cô về đây là một tên côn đồ lưu manh, dâm ô tàn ác vô kể. Tôi xin kể một vài chuyện cho cô nghe. Ông Lương Khánh Thiện, một Uỷ viên Trung ương, bị đế quốc Pháp giết có con gái tên là Bình. Chị Đường, vợ anh Thiện đem con gái gởi bác Hoàn nhờ bác tác thành cho. Lão Hoàn đã hiếp nó, nó chửa rồi chọn một tên lưu manh vào làm Công an để gả cô Bình làm vợ. Lão lại đem một cô gái có nhan sắc nhận là cháu, cũng hiếp cô gái này cho tới chửa, rồi giết chết quăng xác xuống hồ Ha Le để khỏi mang tiếng. Cán bộ Công an nhiều người biết chuyện của nó, nhưng không ai dám hở răng, vì sợ lão vu cho tội gì bắt giam rồi thủ tiêu.

Nghe chuyện đó chị cũng khủng khiếp, nhưng lại nghĩ là nó đối với mọi người khác, còn đối với mình thì nó đâu dám. Nhưng chỉ được mấy hôm sau chị nghe tiếng giầy đi nhè nhẹ lên gác, chị chạy ra thì thấy nó đi lên nhếch mép cười một cách xõ lá. Nó chào chị rồi đi thẳng vào nhà, nó ôm ghì lấy chị vào lòng rồi hôn chị. Chị xô nó ra nói : "Không được hỗn, tôi là vợ ông chủ tịch nước". Nó cười một cách nhạo báng : "Tôi biết bà to lắm nhưng sinh mệnh bà nằm trong tay tôi". Rồi nó lại nói : "Sinh mệnh tất cả dân tộc Việt nam, kể cả bố mẹ anh chị nhà bà cũng nằm trong tay tôi. Tôi muốn bắt ở tù, thủ tiêu đứa nào tuỳ ý. Và tôi nói cho bà biết cụ già nhà bà cũng không ngoài tay với của tôi."

Rồi nó rút khẩu súng lục dí vào ngực chị. Chị ngồi xụp xuống ghế nói : "Anh cứ bắn đi". Nó cười khì khì : Tôi chưa dại gì bắn. Tôi tặng bà vật khác. Nó dắt súng vào túi quần rồi rút ra một sợi dây dù to bằng chiếc đũa, đã thắt sẳn một cái thòng lọng. Nó quàng cái tròng vào cổ chị rồi kéo chị đi lại cái giường kia, đẩy chị nằm xuống, rồi đầu sợi giây nó buộc vào chân giường. Chị khiếp sợ run như cầy sấy. Nó nói " Bây giờ bà muốn chết tôi cho bà chết ". Rồi nó lột hết quần áo chị, nó ngồi xuống nó ngắm nghía ngâm nga :

Rõ ràng trong ngọc trắng ngà, đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây ? Phẩm tiên đã đến tay phàm, thì vin cành quýt cho cam sự đời .

Rồi nó nằm đè lên hiếp chị. Chị xấu hổ lấy tay che mặt. Nó kéo tay chị nói : " Thanh niên nó phục vụ không khoái hơn ông già mà còn vờ làm gái ". Xong nó cởi thòng lọng cho chị, rồi nó ngồi bên chị tán tỉnh hàng giờ : "Anh thương em lắm. Người ta gặp hạnh phúc phải biết hưởng hạnh phúc. Nếu em thuận tình thì muốn gì cũng có. Nó đeo vào tay chị một chiếc nhẫn vàng, chị đã ném vào nhà xí. Nó lại dặn : " Việc này phải tuyệt đối bí mật, nếu hở ra thì mất mạng cả lũ và tôi nói cho cô biết ông cụ tin tôi hơn cô."

Rồi từ đó chị biến thành một thứ trò chơi của nó. Thấy bóng dáng nó chị như một con mèo nhìn thấy con cọp, hồn vía lên mây. Nó muốn làm gì thì tuỳ ý nó. Trong mấy tháng trời chị tính quẩn lo quanh, không biết tâm sự với ai mà không làm sao thoát khỏi nanh vuốt của nó. Nhớ lại lời nói của bà già, chị liền xin bác cho hai em về đây, mong tránh được mặt nó.

Nhưng những hôm Công an gọi các em đi làm hộ khẩu, đi làm chứng minh thư lâu hàng buổi là nó tới hành hạ chị. Nó bảo chị phải nói cho hai em biết. Phải biết câm cái miệng nếu bép xép thì mất mạng cả lũ. Hôm nay nó lại đây trắng trợn như vậy vì nó tưởng chị đã dặn hai em rồi. Bây giờ việc đã xẫy ra chị thấy rất nguy hiểm. Em nói : "Hay là chị em ta trốn đi ?". Chị Xuân nói : "Sau ngày sinh cháu Trung, chị thưa với Bác, bây giờ đã có con trai, xin bác cho mẹ con ra công khai". Bác nói : "Cô xin như vậy là hợp tình, hợp lý. Nhưng phải được Bộ Chính Trị đồng ý, nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được. Do đó cô đành phải chờ một thời gian nữa". Mấy tuần trước Bác lại hỏi chị : "Các cô ở đó có nhiều người lạ tới thăm phải không ?". Chị thưa : "Ba chị em không có ai quen biết ở Hà Nội. Còn bà con ở Cao Bằng không biết chị em ở đâu." Bác nói : " Không nhẽ ông Bộ Trưởng Công an nói dối."

"Chị suy nghĩ mãi mới thấy rõ, nó muốn vu cáo chị em ta liên hệ với gián điệp hoặc đặc vu gì đó để định kế thoát thân nếu việc của nó bị bại lộ Bây giờ ta trốn cũng không làm sao thoát khỏi tay nó, mà nó còn vu cáo giết hại ba chị em chúng ta". Chị Xuân lại nói : "chị bị giết cũng đáng đời, chị rất hối hận xin hai em về đây để chịu chung số phận với chị". Em thấy nguy hiểm vì tên Hoàn đã nổi tiếng ở Bộ Công an là một tên dâm bôn vô cùng tàn ác.

Đến độ một tuần sau, vào 7 giờ tối ngày 11 tháng 2 năm 1957, ngày em còn nhớ như đinh đóng cột. Một chiếc xe com măng ca thường đón chị Xuân lên gặp bác Hồ, anh Ninh xồm, người bảo vệ Trần Quốc Hoàn chuyển lên bảo vệ Bác, vào gặp chị Xuân nói lên gặp Bác. Chị Xuân mặc quần áo, xoa nước hoa rồi ra đi. Sáng hôm sau, 12 tháng 2, một nhân viên Công an Hà Nội đến báo tin chị Xuân gặp tai nạn ô tô chết rồi, hiện còn để ở nhà xác bệnh viện Phủ Doãn. Em hốt hoảng đưa cháu cho Chị Nguyệt, ra lên xe Công an vào bệnh viện. Em không được vô nhà xác, họ nói còn mổ tử thi. Lên một phòng chờ em thấy trong phòng đã khá đông người : Công an, Tòa án, Kiểm sát viên. Sau một tiếng, hai bác sĩ, một cán bộ Công an, một kiểm sát viên lên phòng chờ, đem theo một tờ biên bản đọc to lên cho mọi người nghe. Tử thi thân thể không có thương tích gì, thấy rõ không bị tai nạn ô tô và cũng không phải bị đâm chém đánh đập gì. Mổ tử thi trong cơ thể lục phủ ngũ tạng cũng không có thương tích gì. Da dầy không có thức ăn, không có thuốc độc. Tử cung không có tinh trùng biểu thị không bị hiếp dâm.

Duy chỉ có xương đỉnh đầu bị rạn nức. Mổ sọ não không còn óc, mà chỉ còn nước nhờn chảy tuôn ra. Bác sĩ tuyên bố đây có thể bị chùm chăn lên đầu rồi dùng búa đánh vào giữa đầu. Đây là phương pháp giết người của bọn lưu manh chuyên nghiệp của nhiều nước đã xử dụng. Em vô cùng đau khổ chạy về kể chuyện lại cho chị Nguyệt nghe để hai chị em cùng khóc. Ít lâu sau một cán bộ Công an đến bế cháu Trung đi, chúng em không được biết đem đi đâu. Rồi em thì được đi học một lớp y tá của khu tự trị Việt Bắc ở Thái Nguyên. Chị Nguyệt không biết họ cho đi đâu sống chết thế nào. Học mấy tháng thì em được chuyển về bệnh viện Cao Bằng, em khóc luôn, họ cho là em bị thần kinh nên cho về đây điều trị. May lại được gặp anh kể hết mọi chuyện cho anh nghe. Em nghĩ anh chỉ bị thương nhẹ, anh còn sống được lâu anh sẽ nói rõ cho toàn dân biết được vụ bê bối này. Còn em thì chắc chắn sẽ bị chúng giết vì em đã nói vụ này cho nhiều chị em bà con biết. Bọn hung thủ còn theo dõi em. Ở Cao Bằng có hôm em thấy thằng Ninh xồm tới gặp ông bác sĩ bệnh viện trưởng, được ít hôm họ tuyên bố em bị thần kinh được chuyển về điều trị tại Hoà An.

Tôi chỉ được gặp Vàng em tôi có một tháng, đến ngày mồng 2 tháng 11 năm 1957 cô Vàng đi về thăm ông cậu Hoàng văn Đệ. Hung thủ đi theo rồi giết chết em tôi quăng xác xuống sông Bằng Giang đến ngày mồng 5 tháng 11 mới nổi lên ở cầu Hoàng Bồ. Tôi được tin sửng sốt chạy về cầu Hoàng Bồ thì thi hài đã được kiểm nghiệm và chôn cất rồi. Nghe dư luận xôn xao bị đánh vở sọ, đồng hồ vẫn còn nguyên và người nhà đã nhận về chôn cất. Tôi đâm bổ về Hà Nội liên lạc được với một cậu bạn cùng học làm việc ở Toà án Hà Nội. Tôi kể vụ án em tôi bị giết thì bạn tôi sao cho tôi một bản Công Văn Viện Kiểm sát hỏi toà án về vụ em tôi và cô Xuân bị giết. Tôi xin sao bản văn đó trình ông để tiện việc điều tra. Vụ này nhiều người bị giết. Cô Xuân, vợ cụ Hồ Chí Min h, cô Vàng, vợ chưa cưới của tôi, cô Nguyệt, còn nhiều người ở Trường y tá Thái Nguyên nghe chuyện Vàng kể đi nói chuyện lại cũng bị giết lây.

Mấy chục năm nay tôi tim gan thắt ruột, nghĩ cách trả thù cho em tôi nhưng sức yếu thế cơ đành ngậm hờn chờ chết. Theo Vàng dặn lại, tôi liên hệ với một sốcán bộ về hưu Công an, kiểm sát họ cho tôi biết cậu Trung ngày đó đã được đưa về cụ Bằng nuôi. Độ 4, 5 tuổi thì gửi cho Chu Văn Tấn, đến năm 13 tuổi là năm 1969 ngày Bác Hồ mất thì giao cho ông Vũ Kỳ, nguyên Thư Ký của Bác, nay là Phó Giám đốc Bảo tàng Hồ chí Minh làm con nuôi. Vũ Kỳ có 2 con đẻ là Vũ Vinh và Vũ Quang, còn Vũ Trung là con nuôi ; là con chị Xuân với Bác Hồ. Tôi một thương binh sắp đi qua thế giới khác, máu hoà nước mắt viết thư này nhờ một người bạn chí tình, thành tâm bảo vệ lẽ phải, đánh máy bức thư gởi tới trình ông. Mong ông lưu ý xét cho mấy việc :

1- Các ông sẵn lòng bảo vệ chân lý điều tra cho ra những đứa thủ mưu, thủ ác, chứ không truy xét những người có lương tâm phát hiện lũ tàn ác.

2- Ở xã Hồng Việt bà con bạn hữu chị Xuân vào trạc tuổi 45 trở lên còn khá nhiều đều biết rõ ràng cô Vàng, cô Xuân, cô Nguyệt và chắc gia đình của cô Xuân còn khá nhiều di vật của cô Xuân. Nhưng tất cả mọi người đều khiếp sợ, không dám hé răng. Mong ông cho điều tra thận trọng, bí mật, vì việc điều tra này bị lộ thì cả lô bà con này bị thủ tiêu.

3- Cậu Nguyễn Tất Trung còn sống khoẻ mạnh nhưng việc điều tra lộ ra thì cậu cũng dễ dàng bị thủ tiêu. Tên hung thủ lái xe đón bà Xuân đi giết là Tạ Quang Chiến hiên nay là Tổng cục Phó Tổng cục Thể dục Thể thao. Còn tên Ninh xồm thì chúng tôi không hiểu đã leo lên chức vụ nào rồi.

Từ thế giới khác kính chúc Ngài nhiều hạnh phúc.

Vợ chồng Nguyễn thị Vàng

(quehuongmedia)

*
***
*

Bức Thư Mật Liên Quan Đến Hồ Chí Minh – do Huyền Thoại đọc

http://www.hotmit.com/mega/Buc%20Thu%20Mat%20Lien%20Quan%20Den%20Ho%20Chi..mp3

Diễn Ðàn Hộtmít -> Truyện Audio

http://www.huyenthoai.org/Van.html
http://www.lmvntd.org/tailieucs.htm

Nhận Định Về Chuyến Đi Của VC Triết

Nhận Định Về Chuyến Đi Hoa Kỳ Của Việt Gian Cộng Sản Nguyễn Minh Triết - phần 1

Nhà báo Việt Thường

Tại sao không được chào đón 21 phát súng thần công dành cho một nguyên thủ quốc gia, không được mời ăn quốc yến, không được cho ngủ tại nhà quốc khách Blair House mà Việt gian cộng sản Nguyễn Minh Triết vẫn cứ Mỹ? Việt gian được gì và không được gì trong chuyến đi triều kiến tổng thống Hoa Kỳ? Xin mời quý bạn đọc theo dõi buổi nói chuyện của nhà báo Việt Thường từ Luân Đôn.

:::Nhận Định Về Chuyến Đi Của Việt Gian Triết

----
- · Hồ Chí Minh

Giải Tỏa Huyền Thoại Hồ Chí Minh

Giải Tỏa Huyền Thoại Hồ Chí Minh

Luật sư Nguyễn Hữu Thống


Hồ Chí Minh - lúc chập chững đi làm Việt gian cho đệ tam quồc tế


Để xây dựng uy tín cho Hồ Chí Minh, Đảng Cộng Sản đã sử dụng nhiều chiêu bài và ngụy tạo nhiều huyền thoại:


1) Huyền thoại gia đình cách mạng.
2) Huyền thoại lên đường cứu nước.
3) Tiếm danh Nguyễn Ái Quốc.
4) Giả danh Trần Dân Tiên.
5) Giả đoàn kết quốc gia.
6) Giả hiệp ước quốc tế.
7) Ngụy tạo tư tưởng Hồ Chí Minh.


1. HUYỀN THOẠI GIA ĐÌNH CÁCH MẠNG.

Các nhà sử học Cộng Sản trình bày rằng Hồ Chí Minh xuất thân từ một gia đình cách mạng. Thân phụ là phó bảng Nguyễn Sinh Sắc hay Nguyễn Sinh Huy, là bạn đồng khoa với Phan Chu Trinh và thường giao kết với Phan Bội Châu là người đồng hương. Sau khi được bổ nhiệm tri huyện Bình Khê, Nguyễn Sinh Sắc đã tự ý từ quan để phản kháng chế độ thực dân phong kiến.

Sự thật không phải như vậy. Dầu là một sĩ phu đỗ đại khoa, Nguyễn Sinh Sắc đã không có một đời sống cá nhân đứng đắn. Ông thường say rượu và trong những lúc nóng giận đã có thái độ thô lỗ và đánh đập con cái. Năm 1910, cũng vì say sưa, Nguyễn Sinh Sắc đã quá tay đánh chết một nghi can là Tạ Đức Quang. Cũng vì vậy ông bị triều đình tuyên phạt 100 trượng, giáng 4 cấp, cách chức tri huyện và sa thải khỏi quan trường. Sau này ông được miễn phạt trượng hình. Dầu sao ông đã làm nhục giới nho sĩ vì không biết tu thân trước khi trị quốc. Do sự sỉ nhục này đối với sĩ lâm và bà con lối xóm, ông đã dắt các con rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, đi tha phương cầu thực làm nghề bốc thuốc tại miền Nam.


Sự thật lịch sử này đã được chứng minh bằng một văn thư do Hồ Chí Minh dưới tên Paul Tất Thành viết từ Nữu Ước ngày 15-12-1912 gửi Khâm Sứ Trung Kỳ, xin cho cha được phục chức và được làm thừa biện, giáo thụ hay huấn đạo để có phương tiện mưu sinh.

Và truyền thống gia đình cách mạng của Hồ Chí Minh chỉ là một huyền thoại (Chính Đạo: Hồ Chí Minh, con người và huyền thoại).


2. HUYỀN THỌAI LÊN ĐƯỜNG CỨU NƯỚC.

Các nhà sử học CS còn trình bày rằng năm 21 tuổi Hồ Chí Minh rời Bến Nhà Rồng Saigon xuất dương lên đường cứu nước. Thời gian này, phong trào kháng thuế tại Quảng Nam và các tỉnh miền Trung đã bị dập tắt. Trường Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội đã bị thâu hồi giấy phép và tại Nhật Bản, Phan Bội Châu, Cường Để cùng 200 sinh viên Việt Nam du học đã bị trục xuất. Theo gương Phan Chu Trinh, năm 1911 Hồ Chí Minh tìm đường qua Pháp để học hỏi tinh thần tự do dân chủ, hy vọng có ngày trở về giải phóng đồng bào khỏi ách đế quốc tư bản.


Đây cũng chỉ là một huyền thoại. Do đơn ngày 15-9-1911, Nguyễn Tất Thành xin Bộ Thuộc Địạ Pháp đặc cách cho theo học Trường Thuộc Địa “để trở nên người hữu ích cho nước Pháp” (utile à la France). Trường Thuộc Địa là trung tâm đào tạo các cán bộ hành chánh và giáo dục của chế độ thuộc địa. Theo quy chế, các sinh viên phải được sự giới thiệu của nhà chức trách Đông Dương. Nhiều vị khoa bảng và trí thức nổi tiếng đã theo học trường này như Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Thân Trọng Huề, Bùi Quang Chiêu, Bùi Bằng Đòan v...v... Vì không đúng thủ tục, đơn của Nguyễn Tất Thành đã bị bác bỏ.


Và huyền thoại Hồ Chí Minh từ Bến Nhà Rồng xuất dương lên đường cứu nước đã bị giải tỏa.


3. TIẾM DANH NGUYỄN ÁI QUỐC.

Từ 1911 đến 1914, Nguyễn Tất Thành làm phụ bếp tại các tầu buôn của hãng Les Chargeurs Réunis chạy quanh các nước Âu Châu, Phi Châu và Mỹ Châu. Khi Thế Chiến Thứ Nhất bùng nổ, Nguyễn Tất Thành sang Anh làm phụ bếp tại nhà hàng Carlton và trở về Paris năm 1917. Trong thời gian này LS Phan Văn Trường đã thành lập Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước để đấu tranh công khai đòi tự trị và độc lập cho Việt Nam.

Do lời mời của lãnh tụ Đảng Xã Hội Pháp Jean Jaures (người đã can thiệp với Thủ Tướng Pháp để ân xá cho Phan Chu Trinh), cùng với cụ Phan, LS Phan Văn Trường đã nhiều lần đến điều trần tại Quốc Hội Pháp để trình bày quan điểm về chính sách bảo hộ của Pháp tại Việt Nam và đạo đạt nguyện vọng của người dân Việt Nam lên Quốc Hội.

Sau Thế Chiến Thứ Nhất, năm 1919 tại Paris, dưới bút hiệu chung Nguyễn Ái Quốc, bộ ba Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành, nhân danh Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước đã đệ trình các Chính Phủ Đồng Minh và Chính Phủ Pháp Thỉnh Nguyện Thư của Dân Tộc Việt Nam trong tinh thần hợp tác và thương nghị, nguyên văn như sau:

“Từ sau cuộc chiến thắng của Đồng Minh, các dân tộc bị trị vô cùng xúc động trước những triển vọng tương lai, căn cứ vào những cam kết minh thị và trân trọng của các cường quốc Đồng Minh trước dư luận thế giới trong cuộc đấu tranh vừa qua để bảo vệ Văn Minh chống Dã Man.


Chiếu theo các cam kết này, một Kỷ Nguyên mới của Luật Pháp và Công Lý sẽ khai mở đem lại hy vọng chứa chan cho các dân tộc bị trị.


Trong khi chờ đợi Nguyên Tắc Chủ Quyền Quốc Gia được chấp thuận trong lý tưởng cũng như trên thực tế do sự thừa nhận và thực thi Quyền Dân Tộc Tự Quyết thiêng liêng, Dân Tộc Việt Nam trân trọng đệ trình các Chính Phủ Đồng Minh cao quý, cũng như Chính Phủ Pháp khả kính, những thỉnh nguyện khiêm tốn sau đây:


1) Ban hành Đại Xá cho tất cả các chính trị phạm bản xứ.
2) Cải thiện chế độ tư pháp Đông Dương bằng cách ban hành những bảo đảm về quyền bình đẳng trước pháp luật giữa người bản xứ và người Âu Châu. Bãi bỏ toàn bộ và vĩnh viễn hệ thống tòa án đặc biệt được dùng làm công cụ khủng bố và đàn áp các thành phần lương thiện nhất của dân tộc Việt Nam.
3) Ban hành Tự Do Báo Chí và Tự Do Ngôn Luận
4) Ban hành Tự Do Lập Hội và Tự Do Hội Họp.
5) Ban hành Tự Do Di Trú và Xuất Ngoại
6) Ban hành Tự Do Giáo Dục và thiết lập tại các tỉnh những trường kỹ thuật và chuyên nghiệp cho người bản xứ.
7) Thay thế chế độ cai trị bằng nghị định bằng chế độ pháp trị.
8) Thành lập Phái Bộ Thường Trực dân cử của người bản xứ bên cạnh Quốc Hội Pháp để đạo đạt tới Quốc Hội những nguyện vọng của người bản xứ.

Khi đệ trình những thỉnh nguyện nêu trên, Dân Tộc Việt Nam kỳ vọng vào nền Công Lý Thế Giới của các Cường Quốc và đặc biệt tin tưởng vào sự hào hiệp của Dân Tộc Pháp cao quý hiện đang nắm giữ vận mệnh của Dân Tộc Việt Nam bằng cách đứng ra bảo hộ Dân Tộc Việt Nam nhân danh Cộng Hòa Pháp. Dân Tộc Việt Nam không hổ thẹn được sự bảo trợ của Dân Tộc Pháp, trái lại còn cảm thấy vinh hạnh. Vì họ biết rằng Dân Tộc Pháp biểu tượng cho Tự Do và Công Lý, và sẽ không bao giờ từ bỏ lý tưởng cao cả của Nghĩa Bác Ái toàn cầu. Vì những lý do đó, trong khi lắng nghe tiếng nói của kẻ bị trị, Dân Tộc Pháp sẽ hoàn thành nghĩa vụ của mình đối với nước Pháp cũng như đối với nhân lọai”.


Thay mặt Hộâi Những Người Việât Nam Yêu Nước,
Nguyễn Ái Quốc

Luật Sư Phan Văn Trường, tiến sĩ luật, Chủ Tịch Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước là người soạn tài liệu này.

Nguyễn Ái Quốc (Nguyen le Patriote) là bút hiệu chung của bộ ba Phan văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành. Nguyễn là dòng họ đa số tại Việt Nam và Ái Quốc là phỏng theo tên Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước (Groupe des Patriotes Annamites). Với bút hiệu này, họ đã viết những bài bình luận trên các báo của Đảng Xã Hội như Nhân Loại (L'Humanité), Dân Chúng (Le Populaire) v...v... Mặc dầu vậy, Hồ Chí Minh đã tự nhận mình là Nguyễn Ái Quốc. Dưới bút hiệu Trần Dân Tiên, trong cuốn “Những Mẩu Chuyện về Đời Hoạt Động của Hồ Chủ Tịch”, Hồ Chí Minh viết: “Khi chiến tranh chấm dứt, tại Hội Nghị Hoà Bình Véc Xây, Tổng Thống Mỹ Wilson nói về 14 điều. Các đại biểu các dân tộc bị áp bức đến để yêu cầu độc lập và tự do. Trong số đó, có Nguyễn Ái Quốc (tức là Anh Ba hay Hồ Chí Minh). Ông Nguyễn tổ chức nhóm người Việt Nam yêu nước tại Paris và ở các tỉnh khác. Với danh nghĩa của tổ chức này, ông đã đưa yêu cầu 8 điều ra trước Hội Nghị Véc Xây”.


Đây chỉ là một sự mạo nhận. Vì những lý do sau đây:


a) Thỉnh Nguyện Thư được soạn thảo nhân danh Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước, một tổ chức do Phan Văn Trường thành lập năm 1914 tại Paris, khi Nguyễn Tất Thành còn ở Luân Đôn.
b) Thỉnh Nguyện Thư đề cập đến những nguyên tắc pháp lý mà trong thời gian đó (1919) chỉ các luật gia và chính trị gia mới thấu hiểu như quyền bình đẳng trước pháp luật, chế độ pháp trị, chế độ tòa án đặc biệt, quyền dân tộc tự quyết v..v...
c) Đề nghị thành lập Phái Bộ Thường Trực Dân Cử Việt Nam tại Quốc Hội Pháp là do sáng kiến của Phan Văn Trường. Từ năm 1911, cùng với Phan Chu Trinh, theo lời mời của Jean Jaures, ông đã nhiều lần đến điều trần tại Quốc Hội Pháp để đạo đạt những nguyện vọng của nhân dân Việt Nam lên Quốc Hội.
d) Nguyễn Tất Thành chỉ là một học sinh vừa qua bậc tiểu học và không có kiến thức chính trị. “Ông rất ít hiểu về chính trị, không biết thế nào là công hội, thế nào là bãi công, và thế nào là chính đảng... Ông không đủ tiếng Pháp để viết và phải khẩn khoản yêu cầu ông Phan Văn Trường viết thay... Ông lắng nghe những buổi thảo luận, nhưng không hiểu rõ về chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản v.v... ông nhức đầu vì khó hiểu”. Vả lại vốn liếng tiếng Pháp của ông chỉ gồm những chữ thông dụng trong đời sống hằng ngày học từ những cô sen trong giới bình dân (Trần Dân Tiên, sđd).
e) Trần Dân Tiên còn nêu lên yêu cầu bãi bỏ chế độ sưu dịch, thuế đinh, thuế muối và việc bắt ép dân mua muối và thuốc phiện. Các điều khoản này không thấy trong bản Thỉnh Nguyện Thư tiếng Pháp đăng trên báo L'Humanité ngày 18-6-1919. (Chính Đạo: Hồ Chí Minh, con người và huyền thoại).

Nói tóm lại, trái với lời Trần Dân Tiên, Hồ Chí Minh không phải là tác giả Thỉnh Nguyện Thư của Dân Tộc Việt Nam. Và năm 1919 Hồ Chí Minh cũng chưa phải là Nguyễn Ái Quốc. Đây chỉ là một sự mạo nhận tư cách của Nguyễn Tất Thành, một người ít học nhưng nhiều tham vọng.

Năm 1917, khi từ Luân Đôn trở về Paris, Nguyễn Tất Thành tá túc tại nhà Luật sư Phan Văn Trường số 6 Villa des Gobelins. Năm 1914, Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường bị bắt giam về tội phản nghịch (tình nghi liên lạc với Cường Để tại Berlin). Sau 9 tháng điều tra hai nhà chí sĩ họ Phan đã được miễn tố (Phan Chu Trinh chủ trương hợp tác với Pháp đánh Đức, cũng như Gandhi hô hào thanh niên Ấn Độ tình nguyện gia nhập quân đội Hoàng Gia Anh). Mặc dầu vậy, hai vị vẫn bị cảnh sát điều tra theo rõi. Mỗi khi có trát đòi Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Tất Thành đứng ra nhận trát, tự xưng là Nguyễn Ái Quốc. Ông nói “Nguyễn Ái Quốc chính là tôi, các ông cứ đưa trát cho tôi, đừng làm phiền chú/bác tôi (ý nói Phan Văn Trường hay Phan Chu Trinh)”. Năm 1921, Nguyễn Tất Thành bỏ Đảng Xã Hội để gia nhập Đảng CS dưới tên Nguyễn Ái Quốc.


4. GIẢ DANH TRẦN DÂN TIÊN

Các nhà sử học cho rằng Hồ Chí Minh là người thông minh, nhưng là sự thông minh ngoài phố. Sự khôn ngoan giảo quyệt này đã được biểu lộ rõ nét nhất trong cuốn “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch” của Trần Dân Tiên xuất bản và tái bản nhiều lần từ 1948 đến 1976. Ngày nay ai cũng biết Trần Dân Tiên là Hồ Chí Minh. Trong lịch sử văn học thế giới, không thấy một nhà văn tự trọng nào lại giả danh bằng một bút hiệu để tự đề cao mình. Dùng bút hiệu thật để nói về mình cũng là vạn bất đắc dĩ, vì cái tôi thường đáng ghét. Dùng bút hiệu giả để thần thánh hóa mình thì quả là đáng ghét!


Chúng ta thử đánh giá sự khiêm tốn của tác giả:


“Nhiều nhà văn nhà báo Việt Nam và ngoại quốc muốn viết tiểu sử của vị Chủ Tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, nhưng mãi đến nay chưa có người nào thành công. Nguyên nhân rất đơn giản: Chủ Tịch Hồ Chí Minh không muốn nhắc lại thân thế của mình (...). Hiện nay còn nhiều việc cần thiết hơn, rất nhiều đồng bào đang đói khổ. Sau 80 năm nô lệ, nước ta bị tàn phá, bây giờ chúng ta phải xây dựng lại. Chúng ta nên làm những công việc hết sức cần kíp đi đã (...). Với đức tính khiêm tốn nhường ấy, và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc làm sao Hồ Chủ Tịch có thể kể lại bình sinh của Người được”.


Thế nhưng Hồ Chủ Tịch đã đại ngôn:

“Khi còn là một thiếu niên 15 tuổi, người thiếu niên ấy đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào. Lúc bấy giờ anh đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Anh khâm phục các cụ Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Hoàng Hoa Thám, nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của 3 người, vì:
- Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương.
- Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp, chẳng khác gì đưa hổ cửa trước rước beo cửa sau.
- Cụ Hoàng Hoa Thám còn nặng cốt cách phong kiến”.
Năm 1905, khi Hồ Chí Minh 15 tuổi, cụ Phan Chu Trinh chưa viết Đầu Pháp Chính Phủ Thư (l906), chưa phát động phong trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục (l907). Vậy mà Hồ Chí Minh đã phê phán chính sách canh tân và giáo dục của cụ là cải lương (mà cải lương thì đã sao?).
Chưa thấy cụ Phan Bội Châu rước cọp vào nhà, chỉ thấy Hồ Chí Minh cõng rắn CS về cắn gà nhà, gây tai hại vô lường cho đất nuớc và dân tộc.
Năm 1945 khi mới 55 tuổi, Hồ Chí Minh tự phong mình là “cha già của dân tộc”. Ông còn tự thần thánh hóa mình, kể rằng “chân dung Hồ Chủ Tịch được treo trên bàn thờ giữa những bình hương hoa đèn nến”.
“Hồ Chủ Tịch được nhân dân yêu mến là do lòng hy sinh và lòng nhân từ của Người. Chủ Tịch không bao giờ nghĩ đến mình. Người chỉ nghĩ đến người khác, nghĩ đến nhân dân (...). Đối với nhi đồng, tên Bác Hồ là như một người mẹ hiền. Chỉ nhắc đến tên Bác là các em trở nên ngoan ngoãn”.

Vậy mà người cha già (67 tuổi) đã nhẫn tâm để đàn em hạ sát người vợ trẻ đã sinh cho mình đứa con trai là Nguyễn Tất Trung. Năm l957, khi cô Nguyễn thị Xuân yêu cầu công khai hoá cuộc hôn phối đã kéo dài trên 2 năm, Hồ Chí Minh vẫn ngọt ngào giả lả: “Cô xin như vậy là hợp tình hợp lý, nhưng phải được Bộ Chính Trị đồng ý, nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được”. Do đó, cô đành phải chờ một thời gian. Trong thời gian này, cô đã biến thành chướng ngại vật làm mất uy tín của lãnh tụ. Theo đúng phương châm hành động, tất cả những chướng ngại vật làm cản trở con đường của lãnh tụ sẽ bị thanh toán và vô hiệu hóa.


Thanh toán trước hết bằng cách hạ nhục đối phương, cho viên tướng công an Trần Quốc Hoàn mặc sức hãm hiếp. Rồi cho thủ hạ chùm chăn lên đầu và dùng búa đánh vỡ sọ nạn nhân (như vụ Staline hạ sát Trotsky tại Mexico).

Một người có những thủ đoạn bất nhân như vậy, mà bộ máy tuyên truyền của CS còn đề cao như một vị anh minh kết tinh “đức tính từ bi của Đức Phật, tính công bằng bác ái của Chúa Ki Tô, sự minh triết của Khổng Tử, sự siêu thoát của Lão Trang”.

Ngoài ra, Trần Dân Tiên còn tự sánh mình với Mặc Tử là người đã mòn trán lỏng gót, bôn ba khắp nơi để lo cho thiên hạ. Điều đáng nói là, trong khi Mặc Tử chủ trương hòa bình, thì Hồ Chí Minh cổ võ chiến tranh. Trong khi Mặc Tử theo thuyết kiêm ái, yêu dân tộc, yêu nhân loại, thì Hồ Chí Minh gieo rắc căm hờn, thúc dục thú tính để phát động đấu tranh giai cấp và thủ tiêu những lương dân vô tội và những người quốc gia yêu nước theo chủ nghĩa dân tộc.


5. GIẢ ĐOÀN KẾT QUỐC GIA.

Khi hay biết phe Thế Giới Dân Chủ không chịu trao Đông Dương cho Đảng Cộng Sản Đông Dương vì họ không muốn Staline mở rộng Bức Màn Sắt từ Đông Âu qua Đông Á, ngày 11-11-1945 Nguyễn Ái Quốc giả bộ giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương để thành lập Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Các Mác. Để có chính nghĩa đoàn kết quốc gia, Hồ Chí Minh mời Nguyễn Hải Thần thuộc Cách Mạng Đồng Minh Hội và Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam thuộc Việt Nam Quốc Dân Đảng tham gia chính phủ liên hiệp.


Trong Tuyên Cáo Đoàn Kết ngày 24-12-1945, Hồ Chí Minh cam kết tôn trọng sự đoàn kết của các đảng phái quốc gia để tranh thủ độc lập, “Vì độc lập quốc gia là cứu cánh tối hậu cần phải tranh thủ và chỉ có sự hợp tác và hữu nghị chân thành giữa những người Việt Nam mới có thể đạt được độc lập quốc gia”. Ông còn lên án mọi hành vi phá hoại tình đoàn kết quốc gia cũng như việc dùng võ lực để tiêu diệt các đảng phái quốc gia.

Vậy mà sau đó Trần Dân Tiên đã vu oan giá họa: “bọn phản động Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam được Trung Hoa Quốc Dân Đảng giúp đỡ đã có âm mưu phá hoại và Hồ Chủ Tịch đã phải nhường cho họ 70 ghế quốc hội”.

Ngày 6-3-1946, Hồ Chí Minh ký Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny công nhận Việt Nam là một quốc gia tự trị trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp. 15-ngàn-quân Pháp được thay thế quân Trung Hoa, đổ bộ Hải Phòng và đồn trú tại Bắc Việt trong 5 năm.

Tháng 5-1946, Hồ Chí Minh qua Paris thương nghị. Phái đoàn Việt Nam đáng lẽ do ngoại trưởng Nguyễn Tường Tam lãnh đạo, nhưng trước đó: “Bộ Trưởng Tam đã bỏ trốn”. Và mùa hè năm đó, Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh cũng bỏ trốn sang Tàu để khỏi bị sát hại như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm v...v... Sau khi tống xuấât quân đội Trung Hoa, CS thẳng tay đàn áp và thủ tiêu các cán binh Quốc Dân Đảng và Đồng Minh Hội. Như vậy, Tuyên Cáo Đoàn Kết 1945 chỉ nhằm thành lập chính phủ liên hiệp để làm bình phong thương nghị với Pháp. Rồi nhờ Pháp tống xuất Tàu cho Đảng CS rảnh tay tiêu diệt các đảng phái quốc gia để được độc quyền lãnh đạo.
Trong Thế Chiến Thứ Hai, để được Đồng Minh yểm trợ, Staline đưa ra chính sách thân thiện với Anh Pháp. Đảng CS Pháp phối hợp với Đảng Xã Hội trong Mặt Trận Bình Dân. Phe CS Việt Nam cũng hợp tác với phe Tân Tả Phái của Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch để thành lập Mặt Trận Dân Chủ và xuất bản tờ La Lutte (Tranh Đấu). Trong những cuộc bầu cử Hội Đồng Đô Thành Saigon và Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ, liên danh Tranh Đấu của Tạ Thu Thâu toàn thắng. Đây là giai đoạn đấu tranh công khai, ôn hòa, hợp pháp và bất bạo động. Chiêu bài đoàn kết quốc gia một lần nữa được áp dụng. Nguyễn An Ninh thuộc phe Trung Hoà, Tạ Thu Thâu thuộc phe Tân Tả Phái và Nguyễn Phan Long thuộc phe Lập Hiến, đã đứng ra tổ chức Đông Dương Đại Hội để đạo đạt thỉnh nguyện của nhân dân Việt Nam tới phái đoàn Quốc Hội từ Paris sang.

Vậy mà ngay sau khi cướp được chính quyền, Đảng CS đã phản bội lời giao ước đoàn kết và đã thủ tiêu Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Phạm Quỳnh, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Văn Sâm, Hồ Văn Ngà, Dương Văn Giáo v...v... là những người quốc gia yêu nước thuộc các nhóm Tân Tả Phái và Lập Hiến.

Về việc hạ sát Tạ Thu Thâu, Hồ Chí Minh còn giả nhân nghĩa tiếc Tạ Thu Thâu là người yêu nước. Nhưng ông lại thêm rằng những ai chống lại chính sách của ông đều sẽ bị vô hiệu hoá. Sau khi Staline thủ tiêu người chiến hữu đàn anh của mình là Trotsky năm 1940, tất cả phe tân tả phái Trotskit đều phải bị thanh toán và triệt hạ uy tín.
Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn cho hạ sát Đức Giáo Chủ Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ và các lãnh tụ các đảng phái quốc gia yêu nước như Trương Tử Anh (Đại Việt), Lý Đông A (Duy Dân), Khái Hưng, Nhượng Tống (Quốc Dân Đảng) v...v...


6, GIẢ HIỆP ƯỚC QUỐC TẾ.

Theo sách lược CS ký hiệp ước không phải để thi hành hiệp ước. Vì các hiệp ước ngoại giao chỉ là những phương tiện để thực thi những mục tiêu chính trị:
a. Ký Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny ngày 6-3-1946 nhờ Pháp tống xuất Tàu để rảnh tay thanh toán các đảng phái quốc gia nhằm giữ độc quyền yêu nước, độc quyền lãnh đạo. Sau đó lại phát động chiến tranh ngày 19- 12-1946.

b. Ký Hiệp Định Đình Chiến Genève 1954 để tống xuất Pháp và cướp chính quyền tại Miền Bắc. Sau đó lại tái phát động chiến tranh.

c. Ký Hiệp Định Hòa Bình Paris 1973 để tống xuất Mỹ. Sau đó lại tái phát động chiến tranh để thôn tính Miền Nam.


7. NGỤY TẠO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.

Sau cuộc Cách Mạng Giải Thể CS tại Đông Âu, chủ nghĩa CS đã bị nhân dân thế giới vứt vào thùng rác lịch sử. Tại Đức, quê hương của Các Mác, chủ nghĩa Mác đã bị phủ định và được thay thế bằng chủ nghĩa Dân Chủ Tự Do và Dân Chủ Xã Hội. Tại Nga, quê hương của Lênin, chủ nghĩa Lênin cũng đã bị phủ định để thay thế bằng chủ nghĩa Dân Chủ Tự Do và Dân Chủ Xã Hội.


Trước sự phá sản của chủ nghĩa Mác Lê, Đảng CS õ ngụy tạo cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh”, một điều mà chính Hồ Chí Minh thời sinh tiền cũng không bao giờ đề cập đến. Ông chỉ nói đến chủ nghĩa Mác Lê, tư tưởng Mao Trạch Đông, và tác phong Hồ Chí Minh. Ông nhìn nhận rằng, về phần tư tưởng, “Bác Mao đã viết cả rồi, tôi không còn gì để viết nữa”. Do đó ông chỉ thực thi trung thành những nguyên lý Mác Lê và tư tưởng Mao Trạch Đông. Ông hết sức tán tụng Staline và Mao Trạch Đông. Ông viết: “Mao Trạch Đông đã đông phương hóa chủ nghĩa Mác Lê và đã đưa cách mạng Trung Quốc đến thành công. Cách mạng Việt Nam phải học tập và thực sự đã học hỏi rất nhiều từ cuộc cách mạng Trung Quốc. Các nhà cách mạng (CS) Việt Nam phải ghi nhớ điều này và phải biết ơn Mao Trạch Đông về sự đóng góp to lớn này”.
Thật vậy, Hồ Chí Minh không có tư tưởng gì đặc sắc. Ông chỉ là người sao chép lại.
Những mục tiêu độc lập, tự do, hạnh phúc ghi trong các tiêu đề chánh thức của nhà nước chỉ là phỏng theo 3 cương lĩnh của chủ nghĩa Tam Dân do Tôn Dật Tiên đề xướng trong Cách Mạng 1911: “Dân Tộc Độc Lập, Dân Quyền Tự Do và Dân Sinh Hạnh Phúc”.

Bản Tuyên Ngôn Độc Lập do Hồ Chí Minh đọc ngày 2-9-1945 cũng là sự sao chép Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ theo đó: “mọi người sinh ra bình đẳng và được Tạo Hóa ban cho những quyền bất khả xâm phạm như quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Thêm vào đó là lời mở đầu Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền Pháp 1789 (chứ không phải 1791 như Hồ Chí Minh đã ngộ nhận): “mọi người sinh ra tự do và bình đẳng và luôn luôn được tự do và bình đẳng”.

Dùng giả nhân nghĩa là ngụy quân tử. Nhưng khéo ngụy trang Hồ Chí Minh đã viện dẫn các tư tưởng minh triết của Nho Gia trong việc giáo hóa, trị dân và dựng nước như: “Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, lo trước cái lo của dân, vui sau cái vui của dân, không lo nghèo mà lo không đều, mười năm trồng cây, trăm năm trồng người” v...v....


Về mặt kiến thức, Hồ Chí Minh thú nhận ông không am tường chính trị và nhức đầu khi nghe nói về những vấn đề lý thuyết chủ nghĩa. Ông chỉ là người cán bộ thừa hành trung thành và tận tụy của Staline và Mao Trạch Đông. Nhờ Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền, ông nổi danh vì bút hiệu chung Nguyễn Ái Quốc. Từ đó, ông được giới thiệu với các lãnh tụ Xã Hội và CS Pháp như Léon Blum, Marcel Cachin v...v... Từ một tiểu trí thức, ông đã bước lên địa vị một cán bộ CS quốc tế, phụ trách vùng Đông Nam Á.


Trong khi các lãnh tụ CS Á Châu khác như Roy tại Ấn Độ hay Malaka tại Nam Dương đều bị thất sủng dưới bàn tay sắt của Staline vì họ có những tư tưởng hướng về chủ nghĩa Dân Tộc và chủ thuyết Hồi Giáo, thì Hồ Chí Minh vẫn một lòng một dạ chung thủy với Quốc Tế CS.


Dầu không có tư tưởng chính trị đặc sắc nhưng Hồ Chí Minh đã thành công trong việc:

Dùng ngụy trang dối trá (ngụy chủ nghĩa Dân Tộc);


Lấy giả nhân giả nghĩa (bằng các chiêu bài độc lập, tự do, hạnh phúc, đoàn kết, hòa giải, hòa hợp);

Để giành chính nghĩa (giải phóng dân tộc, giải phóng lao động);
Và cướp chính quyền (để không chia quyền với bất cứ ai)
.

L.S. Nguyễn Hữu Thống

http://www.vietnamexodus.org/vne/modules.php?name=News&file=article&sid=2080
*
***
*
http://www.huyenthoai.org/Van.html
TỔ CHỨC UNESCO KHÔNG VINH DANH HỒ CHÍ MINH

mercredi 27 juin 2007

Ðộc tài là chất độc

Ðộc tài là chất độc
Tuesday, June 26, 2007

Ngô Nhân Dụng

Mạng lưới Express ở Việt Nam đăng lại một bản tin hàng ngày theo báo Dân Trí. Một người lái xe “đi công tác” từ thành phố Vinh, Nghệ An, đi tới thị trấn Hưng Nguyên. Xe đang chạy thì gặp cảnh sát công lộ ngăn lại. Tài xế Tăng Hồng Hà đạp thắng, xe chưa kịp ngừng thì anh bị một viên đại úy “tổ tuần tra giao thông” dùng gậy đập vào đầu. Trán chảy máu, người chao đảo, phải đưa vào bệnh viện cấp cứu. Trưởng chi công an huyện Hưng Nguyên nhận là thuộc cấp đã làm sai, phải bị kiểm điểm. Nhưng viên đại úy thì không nhận tội, nói rằng anh chỉ đưa cây gậy lên làm dấu hiệu cho xe ngừng, vô tình gây thương tích. Ý nói: Người lái xe tự đập đầu vào cây gậy của cảnh sát! Có tin được không? Nếu ai tin lời ông Nguyễn Minh Triết nói rằng, nước Việt Nam có tự do dân chủ, thì mới tin anh đại úy cảnh sát này.

Tại sao một anh cảnh sát lưu thông lại hung dữ, đánh bể đầu người ta như vậy? Nếu hỏi ông Nguyễn Minh Triết, ông sẽ trả lời rằng, anh đại úy cảnh sát này “hành động theo ý riêng,” và một hành động như vậy chắc chắn “không phải là điều tốt.” Và ông Triết sẽ hứa chính phủ Việt Nam “sẽ có biện pháp thích hợp để xử lý.” Ông có thể còn nói thêm, “Ðây là một lỗi lầm của nhân viên thừa hành chứ chính sách của chính phủ không chủ trương làm như thế.”

Chúng ta có thể đoán ông Nguyễn Minh Triết sẽ nói vậy, vì đó là những lời ông nói khi giải thích về hành động một công an bịt miệng Linh Mục Nguyễn Văn Lý giữa phiên tòa ở Huế. Nhưng chúng tôi đề nghị ông Nguyễn Minh Triết đừng dùng biện pháp nào “xử lý” ông công an bịt miệng. Vì ông ta chỉ hành động một cách máy móc, theo phản ứng tự nhiên, không kịp suy nghĩ gì cả. Cả đời ông ta đã được huấn luyện để làm công việc đó. Bắt tội ông ta là oan! Còn viên đại úy cảnh sát tuần tra giao thông thì đáng phạt thật. Ðánh bể đầu người ta, không lẽ bỏ qua? Nhưng nếu định truy tố anh ta thì nên điều tra thật kỹ lưỡng. Hãy hỏi tại sao anh ta lại có hành động hung dữ đối với người dân như thế? Có phải cha mẹ anh dạy con như thế hay không? Hay là khi đến trường bị thầy, cô giáo đầu độc, sinh ra tính ác? Có phải anh bị bà xã cằn nhằn, sinh ra nóng nảy hay chăng? Hay là chính cái chế độ sử dụng những người như anh đã tạo nên thói quen coi thường sinh mạng người dân, tự coi họ có quyền hành hạ người dân một cách thản nhiên như vậy?

Những hành động của viên đại úy cảnh sát lưu thông hay viên công an bịt miệng người giữa tòa tuy xảy ra trong những hoàn cảnh khác nhau rất nhiều nhưng đều cùng diễn tả một tình trạng xã hội Việt Nam. Ðó là tình trạng một xã hội sống dưới chế độ độc tài quá lâu năm. Chế độ đó dựa trên guồng máy công an cảnh sát cho nên trao cho những giới chức này rất nhiều quyền hành. Tất cả các chế độ độc tài đều phải dựa trên guồng máy công an, mật vụ. Phải chia quyền lợi cho quý vị này, vì họ là những giường cột nâng đỡ chế độ, là lá chắn bảo vệ chế độ, là những người lính xung phong tấn công vũ bão khi có ai dám đứng lên chỉ trích, phê bình chế độ.

Những người cảnh sát, công an có hành động hung bạo chỉ là một triệu chứng dễ thấy nhất về tính chất cực độc của một nhà nước độc tài. Ðộc tài là một thứ chất độc. Nó độc hại vô cùng. Nó phải dùng bạo lực để bắt dân vâng lời, nếu không thì không người dân nào chịu sống làm nô lệ mãi. Khi vua quan chuyên dùng bạo lực để khép dân chúng trong vòng “ổn định” của nhà nước, thì cả xã hội cũng bắt chước theo. Cả xã hội sống trong bạo lực, sống bằng bạo lực. Quý vị có đọc những truyện ngắn và những vở kịch của Nguyễn Huy Thiệp thì hiểu. Tại sao trong đó có nhiều người hành động một cách tàn ác, bất nhân với những thái độ thản nhiên, hờ hững như vậy? Ở đâu mà có những bác sĩ chuyên phá thai ở bệnh viện để lấy xác phôi thai đem về nuôi lợn bán? Ở đâu có cảnh cô con chờ bố nằm ngủ thì cầm búa bổ lên đầu bố? Vì xã hội đã sống thản nhiên với tội ác như vậy từ lâu. Con đấu tố cha, vợ đấu tố chồng, học trò giết thầy. Tất cả các quy tắc “đạo đức cũ” xóa bỏ hết. Chỉ cần hết lòng trung thành với đảng, tuyệt đối theo đúng chính sách, thằng nọ tố cáo thằng kia làm sai lời lãnh tụ, đó là “đạo đức cách mạng” mà ông Hồ Chí Minh vẫn dạy đảng viên của ông.

Nhưng bạo lực riêng thôi chưa đủ độc hại. Những ông Bokassa, Idi Amin chuyên dùng bạo lực, ách độc tài không trụ được bao lâu. Những chế độ của Hitler, Pol Pot không phải chỉ dùng bạo lực. Họ còn một guồng máy tuyên truyền để kéo dài chế độ nữa. Nhà văn Aleksandr Solzhenitsyn viết trong bài diễn văn gửi cho Hàn Lâm Viện Thụy Ðiển, khi ông được trao giải Nobel về văn chương năm 1970, nhưng không được đi lãnh: “Chúng ta đừng quên rằng bạo lực không bao giờ đứng một mình, nó không bao giờ tồn tại được nếu đứng một mình. Nó phải liên kết với dối trá.”

Hai guồng máy đó dựa vào nhau mà sống. Solzhenitsyn giải thích thêm: “Bạo lực tìm thấy chỗ trú ẩn duy nhất của nó là gian dối. Sự dối trá tìm được bạo lực là chỗ nâng đỡ duy nhất. Bất cứ kẻ nào coi bạo lực là phương tiện thì cũng đều lấy gian dối làm quy tắc sống.”

Một người đã sống trong “trại học tập cải tạo” của Stalin nhiều năm, rồi phải sống trong một xã hội Liên Xô hơn nửa đời người, nghẹt thở dưới ách kiểm soát tinh vi của công an mật vụ và của guồng máy tuyên truyền ngụy tạo dối trá trâng tráo, cho nên Solzhenitsyn đã nhìn thấu mối tương quan giữa gian trá và bạo lực như thế. Ông Hồ Chí Minh đã học tập, giác ngộ và nhập cảng toàn thể hai bộ máy bạo lực và dối trá đó vào nước ta. Và đảng Cộng Sản Việt Nam bảo rằng họ đời đời biết ơn ông ấy.

Solzhenitsyn giải thích rằng, chế độ độc tài “không cần phải luôn luôn bóp cổ, xiết họng người ta.” Họ chỉ cần bắt người dân vâng theo những lời giả trá, chỉ cần đồng lõa với dối trá, như vậy là đủ “ổn định” xã hội rồi.

Nhưng khi người dân tập sống chung với sự giả trá cả một đời, người ta sẽ mất thói quen sống lương thiện. Trẻ em lớn lên trong xã hội như vậy, sẽ không phân biệt được thiện và ác. Hãy đọc năm lời dạy của Hồ Chí Minh dành cho nhi đồng. Có câu nào khuyên các em phải sống thật thà, phải kính yêu cha mẹ hay không? Ðó là những thứ “đạo đức cũ,” mà ông Hồ coi là “đứng ngược đầu” khi so sánh với đạo đức cách mạng của ông.

Cho nên một chế độ độc tài sẽ đầu độc cả xã hội. Một nhà văn châu Mỹ La tinh, Mario Vargas Llosa, cũng diễn tả ý đó. Ông nói, “Chế độ độc tài làm nhiễm độc tất cả những thứ mà nó nắm trong tay; từ các định chế chính trị cho tới mối tương quan giữa cha và con.” Những cuốn tiểu thuyết của Llosa mô tả xã hội nơi ông sống, trong những giai đoạn họ phải chịu đựng chế độ độc tài. Trước đây 20 năm, Llaso là một tiếng nói lẻ loi ở Peru, khi ông kêu gọi phải bảo vệ quyền tư hữu và tự do kinh doanh. Vị tổng thống thời đó, Alan Garcia nhất định theo Chủ Nghĩa Xã Hội, quyết định phải quốc hữu hóa các ngân hàng. Năm 1990 ông Llaso ra ứng cử tổng thống, nhưng may mắn thua ông Alberto Fujimori. Nhờ không trúng cử, Llaso tiếp tục viết, bây giờ ông nhất định chỉ làm một nhà văn để được nói sự thật. Bộ tiểu thuyết bốn cuốn “Trò Truyện Trong Giáo Ðường” của ông kể những câu chuyện về đời sống hàng ngày của những người dân bình thường. Ông muốn mô tả “cái chế độ độc tài nó không phải chỉ tự giới hạn trong việc kiểm soát sách báo hay cấm người dân không được sinh hoạt chính trị. Không! Chế độ độc tài nó tạo ra cả một hệ thống để thấm nhập vào tất cả mọi sinh hoạt trong đời sống con người.”

Ngày nay, ông tổng thống cũ Alan Garcia trở lại chấp chánh sau khi ông Fujimori bị tố cáo quá độc tài, bị lật đổ, phải sống lưu vong. Llaso nhận xét: “Bây giờ, ông Garcia đang cai trị lần nữa, nhưng chính ông Garcia ngày xưa đó lại đang là một người cổ vũ mạnh nhất cho một nền kinh tế tư bản ở Peru! Buồn cười không?”

Llosa đã sống lưu vong trong nhiều năm, và ông có dịp so sánh cuộc sống tự do khác với đời sống dưới chế độ độc tài. Trong một cuốn tiểu thuyết khác, “Bữa Tiệc Của Con Dê,” có đoạn ông viết về cái thú vui khi một người sống tự do. “Nó sướng lắm. Cái tách cà phê đó, hay cái ly rượu rum đó đều có vị ngon hơn, hít một hơi khói thuốc hay bơi trong đại dương giữa một ngày nóng bức, cái cuốn phim mình coi chiều Thứ Bảy hay điệu nhạc nghe trên radio, tất cả mọi thứ đem lại cho mình một thú vui êm ái trong thân thể và trong tinh thần, khi mình được hưởng cái thứ mà nhà độc tài Trujillo đã lấy mất của người dân Dominican trước đây 31 năm: tự do!”

Không cần nói nhiều, chúng ta hiểu được những điều mà Solzhenitsyn hay Llaso diễn tả. Một chế độ độc tài là một thứ chất độc. Nó xâm nhập cơ thể và đầu óc mọi người dân sống trong đó. Thử hít thở không khí tự do đi, người ta có thể cảm thấy sống dưới chế độ độc tài nó độc hại thế nào.

Anh đại úy cảnh sát giao thông đập vỡ đầu anh tài xế Tăng Hồng Hà, anh ấy hành động đúng theo thói quen của một người xưa nay vẫn được trao toàn quyền sinh sát trong phạm vi hoạt động của mình. Thằng nào ông bảo không vâng lời ngay thì ông đánh bỏ mẹ nó đi! Nền văn minh xã hội chủ nghĩa đã tạo nên thái độ và cung cách hành sử đó. Anh công an bóp miệng ông thầy tu cũng vậy. Anh phản ứng rất tự nhiên khi thấy người nằm trong bàn tay quản lý của mình bỗng dưng to tiếng. Ở một tòa án bình thường, một quốc gia bình thường, người cảnh sát sẽ chờ quan tòa đập chày và lên tiếng cảnh cáo, rồi ra lệnh đưa “bị cáo” ra khỏi tòa khi gây ồn ào. Nhưng Việt Nam không phải là một xã hội bình thường. Người dân đã sống trong chế độ độc tài hơn nửa thế kỷ, anh công an tự nhiên thấy công việc của mình là phải thò tay bị miệng! Anh ta không có ý định xấu. Cái chế độ bao trùm lên xã hội đã tạo cho anh lối phản ứng vũ phu và thiếu văn minh như vậy! Ông Nguyễn Minh Triết đừng có phạt anh ta. Hành động của anh là tiêu biểu cho cả chế độ Stalin nít mà ông Hồ Chí Minh đã đem từ Nga về nước ta. Có buộc tội ai, phải trở về từ ông Hồ.

Chất độc do một chế độ độc tài đem tiêm nhiễm vào trong xã hội chỉ được giải đi khi nào không còn chế độ độc tài đó nữa. Khi nào người dân được phép nói sự thật, nói thẳng, không lo tự kiểm duyệt; khi đó xã hội sẽ bắt đầu thay đổi. Người công an sẽ khác. Người cảnh sát giao thông cũng sẽ khác. Rồi trẻ em sẽ được học những nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Những giá trị tạo nên các xã hội an lành, lương thiện hơn. Chính vì biết như vậy cho nên những ông Hoàng Minh Chính, Nguyễn Văn Lý, Trịnh Vũ Bình, Nguyễn Văn Ðài, bà Lê Thị Công Nhân v.v... cứ mỏi miệng yêu dầu đảng cộng sản cho người dân Việt được sống tự do hơn.

http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=61809&z=7

lundi 25 juin 2007

Người Cộng Sản trên cả tuyệt vời

Người Cộng Sản trên cả tuyệt vời

Hoàn Nguyên


Ối dzời ơi!!!

Cái bọn phản động ở khắp nơi trên thế giới, kể cả ở Việt Nam (VN) cứ đè ngửa đảng và Chủ tịch ra mà chửi rủa thậm tệ, nào là xấu xa, tham nhũng, v.v. và v.v. Bây gìờ hãy kể ra các thành công trên cả tuyệt vời của đảng để cho cả thế giới và bọn phản động sáng mắt.


Thành công trên phương diện truyền thông

Đất nước VN có khoảng 600 tờ báo chỉ làm có mỗi công việc giống hệt như 600 máy photocopy là đăng tin tức nào đảng chọn cho đăng. Chẳng hạn việc tổng thống (TT) Bush mời 4 tên phản động và khủng bố (theo định nghĩa của đảng) vào tòa Bạch Ốc bàn chuyện chống đảng thì 600 bộ máy photocopy đồng loạt cúp điện; chuyện các dân biểu Hoa Kỳ xoay chủ tịch Triết chóng mặt tại trụ sở quốc hội về tình trạng đàn áp dân chủ tại Việt Nam; chuyện W. Bush “nói rất rõ” về vấn đề nhân quyền khi tiếp Triết; chuyện Hoa Kỳ nghênh đón một nguyên thủ quốc gia mà chỉ Vụ trưởng Lễ Tân ra hướng dẫn vào gặp Bush tại toà Bạch Ốc, không đội quân danh dự, không được mời ở nhà khách của Chính phủ, không quốc yến (chỉ bữa lunch nhẹ nhàng), báo chí quốc tế đều loan tin, nhưng 600 tờ báo và TV của đảng cố tình lờ tịt!

Chính quyền ở các chế độ tự do dân chủ thua xa đảng và nhà nước cộng sản ta về điểm này. Bọn nó đâu dám làm truyền thông như đảng cộng sản (CS) anh hùng tiến bộ của ta trong nghành... bịt tai và che mắt!

Nếu cả nước ta chỉ cần có một tờ báo tự do, độc lập thôi cũng đã đủ chuyên chở hết điều đảng không muốn nói với nhân dân, biết thế nên đảng ta cấm ngặt!

Ngoài tin cáo phó được xem là trung thực của ngành truyền thông Việt Nam, còn mọi tin tức khác thì người dân cứ bảo là láo như vẹm (từ Vẹm này nghe đâu như hình thành từ chữ Việt Minh viết tắt VM, từ hồi còn mồ ma thực dân Pháp kìa). Cứ xem Vienamnet, Tuổi Trẻ, Thông Tấn Xã VN, Thanh Niên... nói về chuyến công du Hoa Kỳ của chủ tịch Triết là... thấy rõ như ban ngày.


Thành công trong giáo dục

Đảng đã có công biến nghành giáo dục thành nền giáo dục kinh tế thị trường mà không có quốc gia tự do dân chủ (cho dù dở hơi) nào làm nổi.

Kinh tế thị trường là thâu lợi nhuận nên từ mẫu giáo, nhà trẻ tiểu học đến đại học, nhân viên ngành giáo dục tha hồ bán đề thi và bán điểm, bán bằng cấp. Nếu không có tiền mua điểm mà có chút nhan sắc thì thầy sẵn sàng nhận “vốn tự có” của các em nữ sinh. Đảng lãnh đạo ngành giáo dục nước ta và sản xuất hàng loạt tiến sĩ giấy, giờ này ra ngõ còn gặp nhiều hơn là “anh hùng” thời chống Mỹ.

Không oan nếu nói rằng, giáo dục theo kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là theo định hướng móc (tiền) và... khai thác tối đa “vốn tự có” của các em nữ sinh!


Thành công trong ngoại giao

Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết sang nước Mỹ để bàn chuyện làm ăn bang giao với Tổng Thống Mỹ mà phải đi cửa hậu vào tòa Bạch Ốc. Cha ông ta thường nói: Chỉ bọn ăn trộm mới khoái cửa sau. Ngài ớn cửa trước vì phía cửa trước đồng bào ta cầm cờ vàng, biểu tượng của cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản, biểu ngữ đòi dân chủ, nhân quyền, chào đón” tưng bừng. Mặc dù quốc hội của đảng ngài đã thông báo rằng, nhân dân trong nước đã đi bầu với tỉ lệ 99.65% để ủng hộ ngài và chính phủ của ngài, nhưng không thể qua mặt bà con được. Như một dân biểu nói, ngài chỉ là một Gangster của tập đoàn cộng sản mafia mà thôi!

Chắc ngài Chủ tịch không chỉ sợ bị chụp hình giữa rừng cờ vàng mà nếu bị phỏng vấn thì 100% chủ tịch sẽ biến thành chủ.. tịt, nên đành xài cửa sau cho tiện!

Nhờ đảng chỉ đạo những hành động đầy sáng tạo như bắt giam người vô tội và trí thức, đàn áp tôn giáo nên cộng đồng Âu Châu, Úc Châu và Mỹ Châu đều lên án Việt Nam vi phạm nhân quyền và chà đạp lên tự do ngôn luận. Đây là một "thành công" đáng nể của đảng vì đâu có quốc gia nào trên thế gìới ngoại trừ Miến Điện mà được cả 3 châu lục địa cùng xúm vào chửi đảng. Đâu dễ gì cùng lúc được nghe cả thế giới chửi?

Hình như chỉ duy nhất chỉ có lãnh đạo nhà nước của đảng CS VN ta khi ra nước ngoài thì các họ sợ gặp bà con đồng hương của nước mình như sợ cọp. Không hiểu đảng đã ăn ở như thế nào mà "khúc ruột ngàn dặm "cứ chờ lúc nào các lãnh đạo đảng ló dạng là tập trung để chửi cho thỏa thuê, chửi cho tốc nóc nhà và chửi cho các lãnh đạo phải chuồn êm bằng cửa hậu. Đảng đúng là number one (nằm-bờ-oan)!

Không biết các vị chủ nhân ngoại quốc nghĩ sao về nỗi nhục nhằn, khốn khổ này của đảng ta?


Thành công trong kinh tế

Từ ngày đảng nắm chính quyền toàn nước VN thì ngành kinh tế xuất cảng (mà đúng nghĩa là bán) gái tơ có lẽ phát triển vượt chỉ tiêu. Các cô gái trẻ đẹp còn trinh tiết mà chỉ bán được giá 250-300 đô la. Đảng đã có công thúc đẩy hạ giá thành gái tơ để cạnh tranh giữa các tỉnh thành trong nước và thu được một số ngoại tệ từ khách (của làng chơi hoặc những tay nông dân đui què mẻ sứt, già cọp ế vợ của Đài Loan, Đại Hàn). Đảng nói rằng, hàng rẻ là do có quá nhiều người tự ý muốn bán (trinh), chứ nhà nước không can thiệp vào chuyện riêng, với lại kinh tế thị trường theo định hướng... xả rác thoải mái thì có gì mà thắc mắc! Vì thế cái vụ hai thằng cha Đại Hàn bắt mấy chục cô gái khoả thân, đi vòng quanh xăm xét như những món hàng là chuyện nhỏ. Ở các nước dân chủ, hai gã Sở Khanh này ra hầu toà, nằm bóc lịch nhiều năm về tội xúc phạm nhân phẩm phụ nữ là cái chắc!

Nghĩ cho cùng, đảng cũng đã có nhiều tiên phong dẫn lối đưa đường rồi nên cơ sự mới như thế! Ví dụ, Lương Quốc Dũng ở Tổng Cục Thể Thao dụ gái 13 tuổi, hay thứ trưởng giao thông Nguyễn Việt Tiến (một trong những đại nhân của vụ án PMU 18) uống rượu, ôm ẩu vợ người ta, bị chồng cự nự, không xin lỗi lại còn cho ông chồng ăn đấm gãy cả răng, rồi để êm chuyện vừa dùng quyền lực, quen biết đe đoạ vừa bỏ ra mấy chục ngàn đô dàn xếp...

Song song, xuất khẩu lao động gia tăng kỷ lục trong lịch sử 4.000 năm, chưa có triều đại nào làm nổi. Nói là xuất khuẩu lao động, nhưng thực tế người VN đi ở đợ và làm lao nô trong những điều kiện hết sức khắc nghiệt cho các ông chủ tư bản mà lẽ ra đảng phải “đào mồ chôn” chúng nó theo đúng học thuyết Marx-Lenine mà đảng đang hô khẩu hiệu.

Ngày xưa bọn tư bản đế quốc phải chiến đấu đến mất mạng ở VN để mong chinh phục dân Việt, được dân Việt phục vụ, chiếm đoạt tài nguyên của đất nước như đảng vẫn rao giảng.

Ngày nay bọn đế quốc cứ khểnh chân nằm nhà, đảng ta đưa người trực tiếp đến phục vụ, nhanh, nhiều, tốt, rẻ, tiến bộ vượt bực.

Mỗi năm ước tính trung bình có vài trăm ngàn cô gái Việt bị đảng cấu kết (phó mặc, làm ngơ, không phải cấu kết ăn chia thì là cái gì?) với tú bà và ma cô, đem bán khắp thế giới. Rất nhiều gái VN làm đĩ ở Cambodia. Thương tủi cho số phận bất hạnh của con Rồng cháu Tiên!

Không có tập đoàn tư bản nào mà tài ba đến độ chỉ ngồi không mà mỗi năm thu được 3-5 tỷ Mỹ kim tiền tươi, không hoàn lại từ người Việt hải ngoại. Ôi đúng là kinh tế thị trường theo định hướng xã hội... ăn xin. Số tiền này gần tương đương 1/10 tổng thu nhập quốc dân. Trong bụng thì mừng rơn với “khúc ruột ngàn dặm”, “máu của máu Việt Nam” nhưng cái mồm vẫn cứ leo lẻo về cái bọn Việt gian, phản động mỗi khi họ đụng tới dân chủ, nhân quyền, tức là đụng tới cái ghế của đảng...

Kinh tế nước ta được đảng dẫn dắt từ thời tiến nhanh tiến mạnh lên xã hội chủ nghĩa, tức là tiến đến... thời kỳ tiền sử của chủ nghĩa tư bản khi nguời bóc lột người.


Thành công trong bầu cử

Dưới sự lãnh đạo của đảng độc tài và kìm kẹp nên nhân dân đi bầu quốc hội luôn luôn đạt tỉ lệ 99.65%. Có lẽ 0.35% lcòn lại đang bị đảng cầm tù vì kêu gọi tẩy chay bầu cử? Thật là một kết quả trên cả tuyệt vời mà không có một quốc gia thứ hai nào làm được. Nếu có chút liêm sỉ thì không ai có thể nói láo trơ trẽn đến mức đó. Đảng trơ trẽn số một.


Thành công trong ngành Tư Pháp

Vụ tham nhũng PMU 18 cho đến nay đã hai năm mà chưa xong vì Bùi Tiến Dũng và các quan chức khác núp sau cây cổ thụ là Nông Đức Mạnh. Bứt giây động rừng mà!

Ông Linh Mục Lý và các nhà đấu tranh dân chủ thì bị đưa ra toà xử nhanh như chớp. Ngành tư pháp của đảng ta đã được nổi tiếng khắp hoàn vũ do bịt miệng Linh Mục Lý trước tòa án, cho cả thế giới coi chơi, rồi chửi. Đảng CS đã có công rất lớn trong việc phát huy danh tiếng của “Ngành Tư pháp Bịt Miệng” tuyệt hảo, có một không hai trong thế kỷ XXI ngày nay!


Thành công trong ngành Lập Pháp

Đảng đã vượt chỉ tiêu khi chỉ có một thành viên quốc hội không do đảng chỉ định mà trúng tuyển vào “quốc hội nhân dân”, mấy trăm nghị viên còn lại đều do đảng nặn ra. Các đảng viên trong quốc hội được tập luyện môn thể thao gật đầu nên đã thành các lực sĩ gật. Cả cái quốc hội gật gật và gật gật chỉ tốn tiền thuế của dân. Đảng đã làm vang danh bịp và chuyên sản xuất luật (rừng) cho ngành lập pháp. Luật pháp và hiến pháp của đảng lúc nào cũng chửi nhau chí choé vì được phát sinh từ các lực sĩ gật. Nhìn buổi họp quốc hội giống như đoàn quân diễn hành khi cái động tác gật thật nhịp nhàng theo nhịp nói của đảng.


Kết

Trên thế giới có quốc gia thứ hai nào thành công trên cả tuyệt vời ở mọi lãnh vực như đảng ta. Từ bán gái tơ vượt chỉ tiêu với giá rẻ; 99.65% nhân dân đi bầu quốc hội; chủ tịch nước Cộng Hòa XHCNVN độc lập-tự do-hạnh phúc đi thăm chính thức Hoa Kỳ, vươn "ra biển lớn" bằng... cửa hậu của Toà Bạch Ốc; chủ tịch khi gặp kiều bào thì biến thành chủ.. tịt và sợ kiều bào như sợ cọp; chủ tịch đi ra nước ngoài mà nhìn quanh tuyệt nhiên chẳng tìm được một đồng chí nhân dân nào cầm quốc kỳ đỏ sao vàng ra đón tiếp... v.v.

Nhìn cung cách đón tiếp của chủ nhà và các cuộc biểu tình hàng ngàn người ở Washington DC, Dana Point (California) thì ngài chủ tịch nếu còn biết suy nghĩ như một con người, hãy vắt tay lên trán xem ngài đang đại diện cho ai! Không ai bầu các ngài cả. Các ngài “cướp chính quyền” rồi tự tôn nhau, giữ chặt độc quyền cai trị trong một phe đảng mafia chỉ chiếm 3% trên số dân 84 triệu! Các ngài không phải là đại diện chân chính của nhân dân và dân tộc Việt Nam.

Cứ thử đưa Linh Mục Lý hay Luật sư Nguyễn Văn Đài hoặc Luật sư Lê Thị Công Nhân qua Mỹ thì xem đồng bào ở đây sẽ đón tiếp nồng ấm ra sao!

Oái ăm thay, những người như vậy thì ngồi tù và còn đội quân giả nhân, giả nghĩa thì chia nhau vác mặt ăn xin đi khắp nơi.

Cứ cộng hết tất cả các thành công trên cả tuyệt vời của đảng lại thì chúng ta sẽ thấy một tác phẩm tuyệt tác của cái tập thể láo khoét, bịp bợm đang ở trong bộ chính trị đảng CSVN.


© DCVOnline

http://www.danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=article&sid=3509
*
***
*
Ý kiến Bạn đọc (DCVOnline không chịu trách nhiệm về nội dung của những ý kiến đóng góp từ bạn đọc)

Người Cộng Sản ăn chơi trên xương máu của nhân dân 2007-06-25 01:48:47
xuanthuHỡi đồng bào, "khúc xương giọt máu của ta ơi"! Chủ tịt Triết quảng bá Việt Nam bằng cách giới thiệu với quốc khách rằng Việt Nam ta "có nhiều cô gái xinh đẹp". Nhiều người tỏ ra bất bình và buồn cười với cách gợi ý kiểu như thế từ miệng của một quốc gia nguyên thủ.
Không biết cung cách của chủ tịt Chết như thế nào khi phát biểu câu này mà lại có nhiều người bất bình nhỉ? Triết advertised Vietnam: "Tourists, please come to Vietnam to see the Vietnamese ladies are very charming in their long dresses..." http://www.youtube.com/watch?v=Se5toEsmmuc http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/story/2007/06/070621_incidentasiasociety.shtml

Biên giới nước VN ở đâu ???

Biên giới nước VN ở đâu ???
Nước Việt hình Chữ S... nhưng biên giới “Nước” ấy tới đâu? V H San
http://www.doi-thoai.com/baimoi0607_254.html

Biên giới nước VN ở đâu ???

dimanche 24 juin 2007

Slides show Ho Chi Minh 1

Slides show Ho Chi Minh

Bác Hồ và một số người vợ, người tình, đơn xin học trường thuộc địa Pháp (để ra làm quan), công hàm dâng lãnh hải - hải đảo VN cho TQ



*
***
*



*
***
*



*
***
*

samedi 23 juin 2007

Thêm vài nét về HCM

Thêm vài nét về HCM

Sinh ra trong một gia đình nhà Nho. Ngày, tháng, năm sinh đều không rõ vì có nhiều niên hiệu khác nhau. Tên khai sinh là Nguyễn Tất Thành. Thân phụ là phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, đang làm quan cho chính phủ Nam triều bị cách chức vì say rượu đánh chết người. Thiếu phương tiện sinh sống, Nguyễn Tất Thành xuống tầu Latouche - Tréville làm phụ bếp kiếm kế sinh nhai, nhờ đó được chu du thế giới. Đến Marseilles, anh Thành nộp đơn xin vào trường Thuộc Địa của Pháp nhưng bị từ chối. Anh tiếp tục làm bồi tàu, thuỷ thủ để kiếm sống do đó từng qua cả Mỹ lẫn Anh. Thời gian ở Anh không được rõ anh ở đâu làm gì. Năm 1917, Thành trở lại Pháp, tiếp xúc với những nhà ái quốc tên tuổi như Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, nhất là nhà cách mạng Phan Chu Trinh, bạn học cũ của thân phụ anh và được mang tên chung Nguyễn Ái Quốc cùng với các nhân vật này để hoạt động tuyên truyền vận động cho phong trào yêu nước tại Pháp.

Năm 1919 Thành gia nhập đảng xã hội Pháp là một đảng Mác-xít có đường lối đấu tranh tương đối ôn hòa. Anh say mê nghiên cứu học thuyết Marx. Đại tác phẩm Tư Bản Luận là sách gối đầu giường của anh (Sainteny).

Anh cũng theo dõi các biến chuyển trong phong trào Mácxít và tìm đến Lênin vì ông này đã lãnh đạo thành công cách mạng tháng mười.

Cuối năm 1920 dự hội Tours của đảng xã hội, trong đó đảng chia làm hai và anh theo phe ủng hộ QT3 của Lênin tham gia thành lập đảng CS Pháp.

Lúc ấy Manuilski, đồ đệ của Lênin từng lưu vong ở Pháp từ 1905, đang có ảnh hưởng lớn trong đảng CS Pháp, tiếp xúc với Thành mà ông ta chỉ biết dưới tên chung Nguyễn Ái Quốc. Manuilski lợi dụng Quốc để quảng bá chủ trương sách lược mới của Lênin: khai thác lòng yêu nước của nhân dân các nước bị trị để đánh đổ các đế quốc thực dân, làm suy yếu chế độ Tư Bản. Thành cũng lợi dụng Manuilski để có dịp gặp Lênin và các cán bộ cao cấp QTCS. Với sự thông minh và tài ngoại giao anh đã toại nguyện. Anh được được đi dự các hội nghị lớn của QT3, được cử vào ủy ban trung ương QT Nông Dân. Rồi vào trung ương Ủy Ban Tuyên Truyền Quốc Tế.

Cuối năm 1924, Manuilski cử Quốc sang Trung Hoa làm phụ tá và thông dịch viên cho Mikael Borodin, trưởng đoàn cố vấn Liên Xô cạnh chính phủ Quốc Dân Đảng Tôn Dật Tiên. Thực ra, đó chỉ là bình phong, vì Quốc được QT3 trao nhiệm vụ Tuyên Truyền chủ nghĩa CS và lập các chi bộ CS tại Đông Nam Á. Quốc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nên được cử đại diện cho QT3 lo hợp nhất 3 đảng CS ở Đông Dương ngày 3-2-1930.

Bị nhà cầm quyền Anh bắt ở Hương Cảng vì tình nghi hoạt động Cộng Sản, bị giam rồi được thả (nhờ QT3 can thiệp cử luật sư người Anh có khuynh hướng thiên tả bào chữa), sau đó bị gọi về Mạc Tư Khoa tái huấn luyện và học 3 năm tại trường cao cấp Lênin.

Trong đại hội VII (1935), theo tình hình Liên Xô muốn đấu dịu với các nước Tư bản Tây Phương, Đảng CS Đông Dương được lệnh Mac Tư Khoa đổi hướng đấu tranh đòi tự do dân chủ theo chân đảng Cộng Sản Pháp với Mặt Trận Bình Dân.

Năm 1938, Quốc được phái trở lại Trung Quốc chuẩn bị cho cuộc hợp tác Quốc - Cộng của nước này vào năm sau, khi thế chiến II bùng nổ.

Được trang bị đầy đủ về lý thuyết, chiến lược sách lược đấu tranh của Lênin, nhất là được rèn luyện kỹ hơn về tình báo gián điệp và tuyên truyền, Quốc trở lại hoạt động ở Hoa Nam. Ông đã thành công trong việc xâm nhập, thao túng và chiếm danh của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, lũng đoạn chính phủ lâm thời của Trương Bội Công, thao túng Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội của Nguyễn Hải Thần. Hai tổ chức này đều đã tiếp nhận Quốc và bị ông phản, vì mục đích của ông là gia nhập để “biến chúng thành tổ chức của mình” thể hiện đúng kỹ thuật đấu tranh theo sách lược liên minh giai đoạn của Lênin.

Năm 1942 Nguyễn Ái Quốc đổi tên là Hồ Chí Minh, nhận sự giúp đỡ của tướng Trương Phát Khuê của THDQ và những người Mỹ trong tổ chức OSS, tiền thân của CIA. Để đổi lại, ông hứa cung cấp những tin tức về hoạt động của quân Nhật tại Việt Nam.

Với uy tín hội Việt Minh của Hồ Học Lãm và tài tổ chức của một cán bộ QTCS lão luyện, Hồ Chí Minh nhân danh hội này, lập nên Mặt Trận Việt Minh ngày 19-5-1941 tại hang Pác Bó tỉnh Cao Bằng, quy tụ đồng bào trong nước tiến hành cuộc Cách Mạng Tháng Tám thành công, lập nên chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

Dần dần các cá nhân đoàn thể yêu nước từng ủng hộ ông nhưng không tán thành đường lối CS đều bị ông loại khỏi Việt Minh. Từ đó Việt Minh coi như đồng nghĩa với CS nên ông lập ra mặt trận Liên Việt để quy tụ những nguời không tán thành đường lối của Việt Minh. Với mặt trận này, Hồ Chí Minh tiến hành chiến tranh chống Pháp.

Nhưng lúc ấy có nhiều dấu hiệu cho thấy dân chúng đã nhận ra tính chất CS của Hồ Chí Minh và các nước Đồng Minh cũng không còn ủng hộ. Tình thế càng nguy ngập hơn do những tổn thất nặng về quân sự sau những trận đánh lớn ở vùng Việt Bắc trong năm 1947.

Ông bèn ngồi viết kiệt tác tuyên truyền dưới bút hiệu Trần Dân Tiên, tự mô tả mình như một nhà ái quốc chân chính được nhân dân gọi là “Cha Già Dân Tộc” với những đức tính dễ thương, lòng nhân ái vô hạn. Ông cho dịch gấp ra tiếng Pháp, gửi sang Ngưỡng Quang, Miến Điện để dịch ra tiếng Anh và nhiều thứ tiếng khác. Cán bộ Cộng Sản khắp nơi dựa theo đó tô vẽ, tạo ra các huyền thoại biến ông thành vị thần bí ẩn và một số nhà báo, học giả ngoại quốc cũng theo đó ca tụng ông là “Cha già dân tộc”, là nhà ái quốc. Nhân danh “cha già dân tộc”, Hồ Chí Minh lôi cuốn, xô đẩy nhân dân vào vòng lửa đạn để nắm vững quyền lực và gây thanh thế.

Áp dụng chiến thuật Mao Trạch Đông và tự đặt dưới sự chỉ đạo của các tướng Trung Cộng Trần Canh, Vi Quốc Thanh, ông đánh thắng Pháp tại Điện Biên Phủ, chiếm được nửa nước, từ vĩ tuyến 17 trở ra.

Lập tức, ông cho tiến hành Cải Cách Ruộng Đất và Hợp Tác Hóa nông, công, thương nghiệp theo mô hình các nước cộng sản đàn anh. Trong CCRĐ nửa triệu dân đã bị hành quyết vì “tội sở hữu một số tư điền”, và bị những tòa án nhân dân do ông chỉ thị cho dựng lên kết án họ là địa chủ, cường hào ác bá. CCRĐ coi như thất bại, ông cử đàn em thân tín là Võ Nguyên Giáp xin lỗi nhân dân, mở ra chiến dịch “sửa sai” để làm cái bẫy bắt gọn những ai ra mặt phê bình “Bác” và đảng.

Kế hoạch kinh tế chỉ huy thất bại khiến kinh tế miền Bắc suy sụp. Năm 1959, ông đưa cán binh xâm nhập miền Nam, mở con đường mòn xuyên lãnh thổ Ai Lao mang tên HCM chuyển quân và vũ khí vào Nam, thi hành chính sách “chiếu cố miền Nam”. Cán bộ “nằm vùng” được lệnh ám sát, bắc cóc, thủ tiêu các viên chức chính quyền Miền Nam tại các thôn xã.

Quốc hội miền Nam đối phó bằng cách ban hành luật 10/59 đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật. Trong khi miền Nam dùng luật pháp để tự vệ, thì ông Hồ và đảng cộng sản khủng bố phá hoại miền Nam bằng mọi cách phi pháp. Cuối năm 1960 ông cho lập “Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam” do các cán bộ cộng sản nằm vùng đứng sau điều động đẩy mạnh hơn nữa các hành động phá hoại khủng bố.

Sau khi tổng thống Ngô Đình Diệm tại miền Nam bị giết, Hồ Chí Minh theo lệnh Trung Cộng tiến hành một kế hoạch đại quy mô tiến chiếm miền Nam trong lúc hỗn loạn. Nhưng Mỹ đã can thiệp để cố giữ miền Nam thêm 10 năm nữa. Đầu năm 1968, mặc dầu đã gần 80 và đang dưỡng bệnh tại Trung Quốc, ông Hồ vẫn tích cực chỉ đạo và thường xuyên theo dõi cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân là trận đánh quyết liệt đẩy gần năm chục ngàn cán binh cộng sản vào chỗ chết.

Hơn năm sau ông cũng chết vào ngày 2-9-1969, nhằm đúng ngày “quốc khánh” của ông.

Minh Võ

http://diendan.datviet.com/forum/showthread.php?t=147956

jeudi 21 juin 2007

Bức hinh biết nói

:: Thông Tấn Xã Công Giáo Việt Nam ::
Chùa Đại Nam Quốc Tự ở Bình Dương. Hồ Chí Minh được thờ trong Đại Nam Quốc Tự. b) Tư tưởng Hồ Chí Minh Chúng ta có thể khẳng định mà không sợ sai lầm rằng ...vietcatholic.net/News/Html/44444.htm

HCM và Đại Nam quốc tự và khách sạn 5.000 phòng

Thứ Bảy, 10/02/2007, 11:30 (GMT+7)

Đại Nam quốc tự và khách sạn 5.000 phòng


Bàn thờ chính trong Đại Nam Quốc Tự.



TTCT - “Đại Nam thế giới du lịch” là một công trình du lịch có qui mô lớn bậc nhất VN với tổng vốn đầu tư 3.000 tỉ đồng đang được xây dựng trên diện tích 450ha tại Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.


Đền thờ Đại Nam quốc tự trong khu du lịch này đã hoàn chỉnh, đó là một công trình kiến trúc cổ có diện tích 5.000m2 với chất liệu chính là gỗ, đá và công nghệ mạ vàng. Nơi đây những trang sử vàng của VN được tái hiện một cách công phu, tỉ mỉ.

Chính điện gồm ba tầng thờ tượng đức Phật, vua Hùng Vương và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tất cả đều được mạ vàng 24K. Hai bên là cặp nến rồng, phượng, mỗi cây đúc nặng 1,8 tấn sáp. Dưới chính điện là điểm vọng âm, đứng ngay vị trí này nói không cần micro cả đền đều có thể nghe được. Mỗi du khách VN vào đền đều tìm thấy mình qua bảng thờ 54 dân tộc anh em và hơn 2.000 dòng họ của các dân tộc VN.

http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=179640
Các cánh cửa đền là những câu chuyện lịch sử mạ vàng. Mỗi ô cửa là một câu chuyện. Cả thảy 28 câu chuyện lịch sử từ thời vua Hùng dựng nước được thể hiện bằng phù điêu. Mặt ngoài cửa là những câu chuyện tương truyền trong dân gian được chạm khắc trên gỗ. Hai bên hông đền đặt hai bức tượng Thánh Gióng và Lý Thường Kiệt trong tư thế phi ngựa chồm lên. Trên bức tường bao quanh ngôi đền, những hình ảnh về đồng bào các dân tộc VN cũng được khắc họa dưới dạng phù điêu.

Bức trường thành dài 13km ôm lấy khu du lịch này hiện đang được xây dựng. Điều thú vị là chạy suốt chiều dài bên dưới trường thành sẽ là 5.000 phòng nghỉ. Nếu đúng thế thì có lẽ đây là khách sạn được ghi vào kỷ lục về chiều dài của thế giới. Trong đó có 1.000 phòng được thiết kế theo kiểu cung điện với giá 5-200 USD/phòng/đêm, 4.000 phòng còn lại có giá 5-30 USD/phòng/đêm.

http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=179641
Một lô hạng mục khác để du khách có thể ở lại chơi trong khu du lịch này hai ngày liền như biển nhân tạo, khu trò chơi hiện đại, mê cung thần tiên với ba phương tiện đi bộ, xe và thuyền, vườn thú thiên nhiên, VN thu nhỏ, thế giới thu nhỏ, làng văn hóa, làng nghề, làng ẩm thực VN, phòng chiếu phim 3D, 4D phục vụ học sinh... Bên cạnh đó là các hoạt động, trò chơi tìm hiểu về lịch sử đất nước con người VN.

Theo kế hoạch của những người đầu tư, khu du lịch này sẽ mở cửa đón khách vào ngày 2-9-2007.

TỐ OANH
http://www.tuoitre.com.vn/
---
- http://www.vnn.vn/chinhtri/doinoi/2006/03/551563/
- .: Hướng Dương - Hồ Chí Minh Đến Chết Vẫn làm tội :Vô Thần nhưng ...
Ngôi chùa tự phong tên Đại Nam Quốc Tự khánh thành ngày 18/3 và được ngụy trang dưới hình thức "đại lễ cầu siêu cho toàn bộ người dân Việt Nam đã khuất từ ...www.huongduong.com.au/article_1721.html?PHPSESSID=4d5
- SO DU LICH TP. HO CHI MINH
Trang chủ > Thông tin >Thông tin cần biết > Bình Dương: Đại Nam quốc tự và khách sạn 5.000 ... Đền thờ Đại Nam quốc tự trong khu du lịch này đã hoàn chỉnh, ...tourism.hochiminhcity.gov.vn/thongtin/tintuc_action.php?detail_news_id=780&news_id=1&current_page=4
- Đại Nam quốc tự và khách sạn 5.000 phòng - + + +.: TTO :.+ + + ++ ...
Courant Vietnam - nha san xuat va nhap khau: Ong cach dien ruot ga Courant, ong nuoc Courant, he thong tuoi tu dong tiet kiem nuoc Courant., Tin tuc tu dong ...www.courant.com.vn/component/option,com_onboom-news-tuoitre/Itemid,113/ArticleID,186536/ChannelID,100/
- .: Hướng Dương - Tài liệu :.
Ngôi chùa tự phong tên Đại Nam Quốc Tự khánh thành ngày 18/3 và được ngụy trang dưới (...) • 17/05/2007 - MẠNG LƯỚI NHÂN QUYỀN VIỆT NAM HỌP ĐẠI HỘI, ...www.huongduong.com.au/section_6.html?PHPSESSID=4d5
- Dan Viet
Ngôi chùa tự phong tên Đại Nam Quốc Tự khánh thành ngày 18/3 và được ngụy .... Họ cũng tin rằng ngôi chùa tự xưng Đại Nam Quốc Tự này là một kiểu “rửa tiền ...www.danviet.com.au/news/wmview.php?ArtID=1264
- ykien - :
Còn một điều tối quan trọng mà con rất đau lòng và rất nhiều phật tử cũng rất đau lòng như con, khi nhìn thấy trong ngày lễ khánh thành chùa Đại Nam Quốc Tự ...www.ykien.net/chanhdat01.html
- PTDCVN Tin tức Phát triển tư duy giáo dục trong thế giới trẻ ...
... khu non nước hoàng tránh vô dụng cho tương lai bọn trẻ như "đền thờ đất nước, nửa đền nửa chùa " nhập nhằng lấy tên là “Đại Nam quốc tự !" ở Bỉnh Dương. ...www.ptdcvn.org/modules.php?name=News&file=article&sid=1073
- Use the form below to search for- !
ĐẠI NAM QUỐC TỰ HAY HỒ CHÍ MINH QUỐC TỰ ?????????? CHÚNG TA ĐẾN CHUÀ LỄ PHẬT HAY LỄ HỒ CHÍ MINH????????????????????????? ÔI THÔI VUA HÙNG VÀ CÁC BẬC THÁNH ...www.thaoluanphatphap.net/dainamquoctu.html
- Tieng Noi Tu Do Dan Chu Cho Viet Nam - Trần Khải: Dựng đền thờ ông Hồ
Nghĩa là, lần này, nhà nước CSVN sẽ mở một khu du lịch quốc tế thượng hạng, để mời du khách quốc tế tới Bình Dương, xem đền thờ Đại Nam Quốc Tự khổng lồ, ...tiengnoitudodanchu.org/vn/modules.php?name=News&file=print&sid=3981
- Giaitri24.vn - Khu vui chơi Đại Nam
Đại Nam quốc tự trong khu vui chơi Đại Nam, được xây dựng trên diện tích 5.000m2, theo lối kiến trúc cổ, bao quanh nó là sông Bảo Giang, dài 720m. Ảnh: AQ ...www.giaitri24.vn/News/diemden/dulich/2007/05/9814.aspx
- Thu Vien Hoa Sen !
Hành ngàn ngọn nến được thắp sáng tại Đại Nam Quốc Tự. ... Toà nhà Đại Nam Quốc Tự, với mái ngói cong vút theo kiến trúc thời nhà Lý, phủ hai màu xanh, ...www.thuvienhoasen.org/dailecausieuchotoandanviet.htm

- :: Thông Tấn Xã Công Giáo Việt Nam :: !!!!!
Chùa Đại Nam Quốc Tự ở Bình Dương. Hồ Chí Minh được thờ trong Đại Nam Quốc Tự. b) Tư tưởng Hồ Chí Minh Chúng ta có thể khẳng định mà không sợ sai lầm rằng ...vietcatholic.net/News/Html/44444.htm

Hồ Chí Minh không có công mà nặng tội với nước - NTB

Hồ Chí Minh không có công mà nặng tội với nước - NTB
Nguyễn Tường Bá Tác gỉa không giử bản quyền. Yêu cầu phổ biến rộng rải

Hồ Chí Minh không có công mà nặng tội với nước, với tất cả các đảng khác, với tất cả tôn giáo, làm thụt lùi nhiều thế kỷ, về mặt nhân quyền văn hóa xã hội, vĩnh viễn lỡ nhiều dịp phát triển Việt Nam thế kỷ vừa qua và hậu quả vẫn đè nặng ngày nay.

Ðể đừng hiểu sai viết lầm về Hồ Chí Minh, trước tiên người ta cần biết 3 điều căn bản tổng quát:
Thế Chiến Hai Và Chiến Tranh Lạnh, Lực Lượng Khởi Đầu Của Việt Minh Cộng Sản và Huyền Thoại Hồ Chí Minh.

Thế Chiến Hai Và Chiến Tranh Lạnh

Tại Âu Châu, Quân Quốc Xã Ðức xâm chiếm các nước có thuộc địa: Pháp, Hòa Lan, Bỉ và tàn phá Anh Quốc. Tại Á Châu. Quân phiệt Nhật đánh tan các thế lực thuộc địa tại Hồng Kông, Ðông Dương, Phi Luật Tân, Miến Diện, Mã Lai, Singapore, v. v…trước khi thua trận, Nhật đã trả độc lập cho các nước Ðông Nam Á. Hai thế lực mạnh: Mỹ và Nga đối nghịch trong chiến tranh lạnh cổ võ và chủ trương trao độc lập trên thế giới. Nhờ vậy, phong trào độc lập thành tất nhiên. Nhiều nước độc lập dễ dàng như Ấn Ðộ (1946) Phi Luật Tân (1946) Nam Dương (1949) Mã Lai, Miến Ðiện (1947) Nam Bắc Hàn (1945) Có nước còn không muốn độc lập như Djibouti, Trung Hoa dưới Tưởng cũng như Mao đều không thấy ích lợi đòi Hồng Kông Ma Cao trước thời hạn.

Riêng tại Việt Nam, một ngày sau khi diệt quân đội Pháp (6-3-45) quân Nhật đã trả (nói cho đúng là “cưỡng bách”) Việt Nam độc lập và chính phủ Trần Trọng Kim cũng là chính phủ Việt Nam độc lập đầu tiên kể từ khi bị Pháp xâm chiếm và các con tem bưu điện hồi đó là chứng minh cụ thể theo thế giới sử. Lực Lượng Khởi Đầu Của Việt Minh Cộng Sản Sở Công Tác Chiến Lược Hoa Kỳ (O. S. S) nay là C. I. A, đã giúp Việt Minh Cộng Sản năm 1944-1945: 5000 (năm ngàn) vũ khí với đạn dược cho số vũ khí đó, huấn luyện tại chiến khu cho bộ đội Việt Minh và danh nghĩa quân đội đồng minh (Sedgwick Tourison, Archimedes L. A. Patti).

Ðó là lực lượng tuyệt đối thời điểm 1945 vì chính phủ Trần Trọng Kim cầm quyền chỉ chú trọng về giáo dục, cứu đói, không chú trọng về quân sự, chỉ có lính khố đỏ mỗi nơi vài chục người võ trang súng bắn viên một của Pháp đã cổ, không có súng lục (chỉ Hoa Kỳ, Pháp mới có) mà súng nầy lại cần trong chiến tranh khủng bố. Khi quân Việt Minh cướp được chính quyền xong họ mới đi tìm Hồ Chí Minh đang lang thang trong rừng vài ngày sau mới gặp (Nguyễn Hưũ Ðang, Nhân Văn Giai Phẩm). Sau vài ngày Việt Minh đảo chính tại Hà Nội, Lê Khang Đỗ Ðình Ðạo và mươi đảng viên Việt Nam Quốc Dân Ðảng (VNQDD) với vài khẩu súng săn của đồn điền Đỗ Ðình Ðạo cũng đã cướp được chính quyền ở Vĩnh Yên. [ Hoàng Văn Ðào] cũng vì sợ lực lượng mạnh tuyệt đối của Việt Minh mà vua Bảo Ðại thoái vị và chính phủ Trần Trọng Kim không dám chống cự mặc dầu quân Nhật đề nghị sẵn sàng dẹp loạn (Trần Trọng Kim, Nguyễn Xuân Chữ).

Huyền Thoại Hồ Chí Minh

Ở trong nước, Huyền Thoại Hồ Chí Minh được dàn dựng theo kiểu mẫu lãnh tụ Nga Tàu, quy mô và độc đoán, coi Hồ Chí Minh như thánh, đạo đức anh minh. Tuy nhiên huyền thọai ở Việt Nam được đẩy xa hơn, thêm nhiều gian dối trắng trợn và rẻ tiền.

Thí dụ: Hồ Chí Minh không vợ, sống độc thân. Mặc dầu không hoang dâm như Mao Trạch Ðông, nhưng Hồ Chí Minh rõ rệt nhiều vợ hơn Mao. Ðủ mọi giống: Trung Hoa, Việt, dân tộc thiểu số, da trắng (Nga, Pháp). Ðặc biệt có sự biến đổi tâm tính từ một thiếu niên ngây thơ ngờ nghệch tán tỉnh cô đầm Bourdon không thành công (Nguyễn Thế Anh); Thân nhân tiệm hình Khánh Ký Paris còn cho biết các sinh viên du học tại Pháp khi về nước đã bàn giao các cô đầm để lại cho Hồ Chí Minh nhưng Hồ Chí Minh đã lúng túng thất bại. Giai đoạn ở bên Trung Hoa hoàn toàn khác, sau khi huấn luyện tại Nga làm việc Hoa Kỳ trong phái đòan Nga Borodin và cùng với Lâm Ðức Thụ bán nhà cách mạng Phan Bội Châu lấy 10 vạn đồng Ðông Dương. (Richard Nixon, No More Việt Nams) Hồ Chí Minh đã lão luyện mua chuộc bà mẹ cô Tàu Tăng Tuyết Minh, ngọai giao anh cô nầy và cưới Tăng Tuyết Minh vào tháng 10 năm 1926 trong một hôn lễ rất linh đình có cả vợ chồng Chu Ân Lai tham dự (Huang Zhen); Nhưng năm 1934, Hồ Chí Minh và Nguyễn Thị Minh Khai cùng tham dự Hội Nghị Quốc Tế Cộng Sản tại Moscow với danh nghĩa vợ chồng chánh thức (Sophie Quinn Judge), đây là một hôn phối chính trị vừa có lợi cho Nguyễn Thi Minh Khai lấy được cán bộ Moscow, có lợi cho Hồ Chí Minh có người vợ là đại biểu phụ nữ Ðông Dương duy nhất. Hồ Chí Minh lúc nầy đang bị xuống cấp và có nguy cơ bị thanh trừng. Sau năm 1937 Minh Khai về nước mới lấy Lê Hồng Phong. Ghi nhận năm 1930, Minh Khai đến làm việc với Hồ Chí Minh thì quan hệ với Tăng Tuyết Minh chấm dứt (William J. Duiker), Hồ Chí Minh ra tòa án Hồng Kông, Tuyết Minh có đến xem nhưng không nói chuyện và cũng không để cho Hồ Chí Minh nhìn thấy. (Huang Zhen) lúc bị bắt tại Hồng Kông Hồ Chí Minh lại ở cùng với một phụ nữ Tàu khác. Ðây là giai đọan Hồ Chí Minh bắt đầu già dặn, tôi luyện trong tình trường và lão luyện trong việc xử dụng quản trị phụ nữ trong đời tư và nhất là trong mưu tính chính trị. Ðiều nầy do kết quả chủ nghĩa cộng sản học tập ở Moscow, hay do sự ăn chơi cùng Lâm Ðức Thụ nhờ dư tiền bán Phan Bội Châu hay do bản tính xấu của chính mình, hay do cả 3 yếu tố? Có ảnh chụp một phụ nữ đẹp ngồi chung với các sĩ quan O. S. S đặc biệt là vị trưởng toán Archimedes L. A. Patti và Hồ Chí Minh trong chiến khu Việt Bắc 1944-1945. Archimedes L. A Patti chối là không bị mỹ nhân kế nhưng không hiểu phụ nữ nầy có mặt trong chiến khu làm gì? Phái đoàn O. S. S nầy lại thiên vị cho Việt Minh rất quá đáng, kỳ thị không những kháng chiến Pháp mà còn kỳ thị mọi phe quốc gia. Khi về Hà Nội cầm quyền 1945-1946, Pháp có đưa một số cô đầm từ Pháp sang gặp Hồ Chí Minh, trong đó có cô Brière chụp ảnh chung với Hồ Chí Minh. Nhưng Hồ Chí Minh không mắc mỹ nhân kế.

Trong trận điện biên phủ, nhiều đêm Võ Nguyên Giáp hủ hóa HCM không thể không biết vì ở chung môt chổ. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ khi ra bưng cũng được thỏa mãn tình dục đầy đủ vì điều nầy giới luật gia tại Miền Nam thập niên 1950 đều biết bệnh đa dâm này của Thọ và chính Thọ cũng đang bị dính líu trong một vụ hiếp dâm tại Nha Trang trước khi đi bưng. Ðể tái kết thân với Chu Ân Lai vì lỗi HCM đã né trốn không tham gia Vạn Lý Trường Chinh, Hồ Chí Minh thân thiết tán tỉnh vợ Chu Ân Lai, một phụ nữ xâu xí và kết quả là được Chu Ân Lai nâng đỡ, lúc chụp hình với Mao luôn luôn được Chu Ân Lai cho đứng cạnh. Cao điểm Hồ Chí Minh với phụ nữ là thủ tiêu Nông Thị Xuân năm 1957 (Hồ Chí Minh lúc nầy 65 tuổi và cô Xuân chỉ 20) sau khi ăn nằm và có con với cô Xuân từ ít nhất 1952. (Vũ Thư Hiên) và cô Xuân ngờ nghệch xin Hồ Chí Minh cho công khai tương quan.
Tính toán sai lạc của Hồ Chí Minh trong việc dùng phụ nữ là ôm hôn bà Sokarno tại hội nghị Bandung, Nam Dương, xứ hồi giáo, việc ôm hôn nầy gây câm phẫn bất lợi ngoại giao.

Thí dụ: Hồ Chí Minh ở nhà sàn.

Ký giả Oliver Todd gọi nhà sàn nầy là của người gác vườn (vì xây dựng lên trong khuôn viên dinh thự thực dân Pháp xưa), nhưng dân Hà Nội oái ăm gọi là nhà sống không ở được. Không làm việc và chỉ chết mới đem xác về vì nhà sàn thiếu chỗ đi vệ sinh, công sản cũng nghĩ đến điều đơn giản này nhưng thực hiện lại khó vì dung cầu giật thì quá văn minh (thời gian 1969 tại Bắc Việt) và dùng cầu đổ thùng thì quá buồn cười với khách ngoại quốc, dù sao “nhà sàn” nầy thiếu tiện nghi truyền thông cho một nguyên thủ bề bộn trong thời chiến.
Ðiều quan trọng không phải Hồ Chí Minh được ở dinh thự hay ở nhà sàn. Bác sĩ Lý, bác sĩ riêng của Mao Trạch Ðông đã tả rỏ rệt cảnh Hồ Chí Minh thèm thuồng (khiến ông Lý nầy phải thương hại) trước những tiện nghi mỹ lệ của các dinh thự tại Bắc Kinh.

Thí dụ: Hồ Chí Minh ăn hút

Các ký giả ngoại quốc nhận xét Hồ Chí Minh hút thuốc thơm ngoại quốc chứ không phải thứ nội hóa nhãn Điện Biên Phủ xanh đỏ. Nhưng thời gian trước 1945 Hồ Chí Minh vẫn hút thuốc thơm (Philips Moris) nhưng để trong bao Melia vàng nội hóa. Giáo sư khả kính Vũ Khắc Khoan kể lại đã được Hồ Chí Minh khoái chí cười cho một điếu thuốc Philis Moris lại để trong bao Melia nội hóa, trong một chuyến du hành rõ ràng láu cá ranh vặt. Các cán bộ Quốc Dân Ðảng ngay từ năm 1945 đã báo cáo Bắc Bộ Phủ Việt Minh hằng ngày lấy thức ăn từ khách sạn Métropole ở bên kia đường, thức ăn Pháp “cao cấp” nhất Ðông Dương. Suốt thời gian 1954-1975 phần hàng ăn của Métropole vẫn sống mạnh trong khi phần khách sạn bỏ hoang phế, Hồ chí Minh và các thân cận nghiền cơm Pháp. Vua chúa hưởng lạc vốn thông thường, họ có phải dấu diếm cũng vì chính trị, nhưng gian dối lường gạt là điều hiếm có và đi cả đến chỗ sát nhân là điều hi hữu. Sau khi Hồ Chí Minh chết huyền thọai trên không giảm mà lại tăng thêm:

Thí dụ 1. Ngày chết của Hồ Chí Minh đúng vào ngày 2 tháng 9, ngày “Quốc Khánh” liền được sửa lại là ngày 3 tháng 9. Nhưng sau đó sự thật lộ ra nên các tài liệu sau nầy tránh nhắc đến ngày chết của Hồ Chí Minh, chỉ để năm thôi. Hậu quả là Hồ Chí Minh không có ngày giỗ.

Thí dụ 2. “Xây Lăng” và ướp xác. Xây mộ rất nguy nga và ngay trong thời chiến và các xác được ướp theo mẫu Nga Xô. Nhiều quân nhân bị bom chết trong lúc lấy gỗ trong rừng.

Thí dụ 3. “Cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh” Hồ Chí Minh ít khi nói thật, nhưng khi nói thật: “Tôi không có tư tưởng gì, tất cả những gì đã do Stalin, Mao Trạch Ðông nghĩ ra” thì các hậu duệ Hồ Chí Minh không tin (!) Giáo sư Sophie Judge nhận xét: Cho đến hết sự nghiệp của ông, Hồ chỉ là một người thực hành thỏa hiệp về chính trị, tạo thế liên hiệp hơn là một người chuyên về lý thuyết và ý thức hệ. (Ðại họcYale, Connecticutt). Nếu đem so sánh với các lãnh tụ cộng sản thế giới thì Hồ Chí Minh thua kém Mao Trạch Ðông và Kim Nhật Thành (Bắc Hàn) về mặt tư tưởng; Mao có tư tưởng “cách mạng văn hóa” và Kim có “tự cường” (Juche), một thứ tổng hợp Mác xít và quân chủ Á Ðông. Hồ cũng không làm được như Ti Tô, người trung lập đứng ngoài tranh chấp Nga Mỹ. Hồ cũng đã dự hội nghị trung lập Bandung 1955 có lẽ thử trung lập nhưng không làm nổi vì không khả năng ăn nói như Nehru và các lãnh tụ khác. Hồ giống Fidel Castro ở điểm nô lệ Mác Xít, thiếu khả năng kinh bang tế thế nên lấy chiến tranh đánh thuê làm lẽ sống. Chỉ CSVN mới có cả một binh chủng đặc công, kỷ lục thế giới về chiến tranh khủng bố.

Hàng ngàn trang Hồ Chí Minh Toàn Tập đọc rất chán với người có trình độ văn hóa vì lập luận một chiều: cộng sản luôn luôn tốt, tư bản luôn luôn xấu. Ca tụng Mác Xít như Sách Ước muốn gì cũng được. CSVN khoe Hồ Chí Minh có công phổ biến chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam.

Sai; công nầy do Trương Tửu, Ðặng Thế Mai, Tạ Thu Thâu. Hồ không bao giờ phê bình hoặc giải thích chủ nghĩa cộng sản. Hồ chỉ là người bắt chước các chế độ Nga Tàu cộng đã làm. Ðem áp dụng một cách máy móc tựa như Monkey sees Monkey does. Hồ chẳng bao giờ quan tâm, thắc mắc, suy nghĩ về các vấn đề tư tưởng. “Cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh” chỉ là bóp méo ngôn ngữ, bịp bợm của đám hậu bối.

Không có “Cái Gọi Là Tư Tưởng Hồ Chí Minh”, điều người ta phải bàn là đầu óc Hồ Chí Minh. J. H. Roy, cộng sản Ấn, đồng môn với Hồ Chí Minh từ 1924 ở Moscow đã cho biết ngay từ thập niên 1950 về cái đầu óc của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh học hành không xuất sắc, kém cỏi trong các đề tài thảo luận, thậm chí đến nỗi không biết lập luận. J. H. Roy ngạc nhiên tại sao Hồ lại thành công tại Việt Nam. Câu trả lời cho J. H. Roy là Hồ Chí Minh không thông minh, Hồ chỉ khôn vặt. Ðể đo thông minh ngày nay ta có chỉ số thông minh (I Q), tuy nay không thể áp dụng với Hồ, nhưng ta có thể đoán chắc là nếu đo IQ (tỷ số thông minh) vì Hồ không biết lập luận, không biết toán và khoa học nên số tỷ lệ thông minh của Hồ khó mà bằng mức trung bình. Nhưng Hồ có thể thành công vì các điều sau:

-Hồ có khiếu ngoại ngữ, biết nói nhiều thứ tiếng Pháp, Anh, Nga, Quảng Ðông; tuy nhiên Hồ không viết Pháp văn, Nga văn khá, chữ Hán thì chỉ viết được thư từ thông thường. Biết nói Anh ngữ là một lợi khí hiếm có vào thời đó và chính nhờ Anh ngữ mà Hồ chinh phục được người anh cô Tăng Tuyết Minh vốn là sinh viên du học Hoa Kỳ, đặc biệt là mua chuộc và lèo lái các nhân viên tình báo Hoa Kỳ O. S. S
Hồ có óc thực tế và điều nầy được C. S. V. N đề cao. Ðừng tưởng lầm lẫn với tinh thần thực tế phóng khoáng vượt thóat giáo điều Mác xít, kiểu như “Mèo trắng, mèo đen đều bắt chuột” của Ðặng Tiểu Bình. Óc thực tế kiểu Hồ Chí Minh vị kỷ duy vật Mác xít cứng nhắc và chỉ ranh vặt.

[Hồ ích kỷ] Khi còn hàn vi Hồ đã từng vì tình gia đình viết thư xin quan thuộc địa cho cha phục chức và nhờ gởi tiền cho cha; nhưng khi lên ngôi cao Hồ chỉ tiếp người chị ruột một lần và nói những gì khiến cho người nầy khóc bỏ ra về và từ đó không ai trong gia đình Hồ còn đến quấy nhiểu Hồ nữa và Hồ cũng không hỏi thăm giúp đở gì gia đình nghèo nầy. Nói cho đúng Hồ có môt lần viết thư chia buồn nhân đám tang mà dụng tâm chỉ để quảng cáo cho tiếng tăm cá nhân. Với người vợ cả chính thức Hồ thủ tiêu Lâm Đức Thụ người bạn chơi bời và mối lái xưa, cắt đứt mọi liên lạc tai tiếng có vợ và vợ người Tàu. Thủ tiêu Nông thị Xuân người đã có con với Hồ nhưng khờ khạo muốn công khai hóa tương quan nầy, các thân nhân của cô Xuân biết chuyện đều cũng bị thủ tiêu.

Hồ không yêu nước theo nghĩa truyền thống hàng nghìn năm Việt: yêu nước là yêu dân. Trong tim Hồ chỉ có cá nhân Hồ và Ðảng cộng sản; không có chỗ cho người dân. Suốt cuộc đời của Hồ, việc thiện duy nhất là ngỏ ý sẽ miễn thuế cho dân nếu hết chiến tranh. Thích Quảng Ðộ than rằng CSVN quá ác và ngay các trẻ thơ Việt thường rù rì lén chỉ cho nhau râu Hồ Chí Minh hiện hình ra “cái đầu lâu”.

Hồ không có tinh thần tự cường độc lập. Hồ là người Việt duy nhất từng muốn và đã làm tay sai cho hầu hết các thế lực ngoại quốc tại Việt Nam, Pháp (Xin học trường thuộc địa) Nga Sô (Làm cán bộ có lương nhiều chục năm) Trung Cộng (thân tín của Beria Trung Cộng Khang Sanh) Trung Hoa Quốc Gia (Phục vụ cho 2 tướng Trương Phát Khuê và Tiêu Văn) Hoa Kỳ (Phục vụ cho O. S. S với bí danh Lucius). Tay sai đắc lực tận tuỵ mà các quan thầy đều hài lòng và đặc biệt tiếc rẻ nếu đã không còn dùng Hồ nữa (Archimedes L. A Patti, Jean Sainteny).

Hồ có tài gây cảm tình cá nhân, tạo ấn tượng tốt trong đám đông, nhưng cũng là người rất vong ân bội nghĩa như đối với gia đình và các ân nhân: Chủ nhân tiệm hình Khánh Ký Paris (Ls Trần Tấn Việt), Lâm đức Thụ v. v. . . Hồ đa nghi và rất ghen ngay lúc tuổi đã già, chính “Beria” Trần Quốc Hoàn biết rỏ điều nầy và lợi dụng để thuyết phục Hồ cho phép thủ tiêu cô Nông Thị Xuân (Vũ Thư Hiên).

Thân Thế:

Hồ là nhân vật mà thân thế đã bị sửa chữa bịa đặt quá nhiều do chính Hồ và cả các thân cận hậu huệ nên rất mù mờ khó mà tìm ra sự thật và có thể coi là không có thân thế.
Hồ có cả thảy 145 bí danh và tên, theo Antatoli Sokolov và theo Trần Anh Tuấn là 150 trong đó có đến 62 bí danh dùng để viết sách báo ca tụng chính mình như Trần Dân Tiên, T. Lan v. v… lúc thì lấy tên đàn ông, lúc tên đàn bà, lúc thì họ Hồ, họ Lê, họ Nguyễn và Trần, lúc thân cận như Bác, lúc bí hiểm như X. Y. Z. (Thế kỷ, May 1999) Ðặc biệt Hồ có bí danh dùng riêng với tình báo Nga Xô là “Lin” và tình báo Hoa Kỳ O. S. S là “Lucius, nhân viên số 19” (Back Fire, Loren Baritz trang 46)
Tất cả các tên và bí danh của Hồ đều không nổi tiếng và không đáng chú ý trừ 2 tên: Nguyễn Aí Quốc và Hồ Chí Minh. Tên Nguyễn Ái Quốc (hay Quấc) là bí danh chung của 5 người chống Pháp: Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Phan Chu Trinh, Nguyễn An Ninh và Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) mà giới Việt Kiều Paris gọi là Ngũ Long. Tên Nguyễn Ái Quốc không do Hồ nghĩ ra vì lẽ đơn giản là Hồ Chí Minh là kẻ đến sau gia nhập nhóm này và cũng là người trẻ nhất.

Các bài viết của nhóm cũng không do Hồ viết vì trình độ Pháp ngữ của Hồ kém, tuy chỉ một mình Hồ ngang nhiên lấy xử dụng tên này để khoe khoang cho đến khi Hồ bán Phan Bội Châu cho Pháp, tên nầy trở thành mang tiếng xấu thì Hồ mới chấm dứt đội tên Nguyễn Ái Quốc.

Tên Hồ Chí Minh vốn là một bí danh cũ của Hồ Học Lãm, một người Việt lưu vong ở Trung Quốc chết năm 1942 (Chánh Ðạo, Niên Biểu Nhân Vật Chí Việt Nam). Chí Minh là một tên rất phổ thông ở bên Tàu và họ Hồ cũng thế, cho nên rất nhiều người Trung Hoa có cái tên Hồ Chí Minh. Theo Vũ Hồng Khanh người đã đem Hồ Chí Minh ra khỏi tù thì là Nguyễn Tất Thành đã mua một căn cước của một hành khất vô thừa nhận mang tên Hồ chí Minh và xử dụng giấy này khi bị bắt, đến khi thả ra phải mang tiếp căn cước này.
Ðiều khôi hài là nhiều tác giả, có cả tự điển đã diễn nghĩa ca tụng “Hồ Chí Minh” có nghĩa là người sáng suốt, thức tỉnh khi mọi người còn ngủ. Chính họ Hồ tự khai ít nhất 5 năm sinh khác gồm 1890 (Trần Dân Tiên) 1891 (Yên Sơn, bí danh khác của Hồ) 1892 (Trong đơn xin học trường thuộc địa Marseille Pháp) 1894 (Khai với sở cảnh sát Paris) 1895 (Khai với sứ quán Nga Xô Berlin để đi học). Tìm hiểu năm nào đúng là việc vô bổ và chúng ta chỉ cần ghi nhận rằng khi còn trẻ đi du học thì khai trẻ hơn và khi về nước lại khai già hơn, tất cả là do nhu cầu thực tế và sự khôn vặt của Hồ; chẳng lẽ năm 1945 xưng là cha già dân tộc, là cụ là bác mà lại sanh 1895 mới chưa đầy 50 tuổi thì coi cũng kỳ và khi du học phải khai trẻ để tỏ ra mình xuất sắc.

Trước ngày quân đội Pháp đổ bộ lên cảng Hải Phòng. CSVN sợ phản ứng của dân chúng nên đã bịa đặt ngày 19 tháng 5 là ngày sinh nhật Hồ Chí Minh kêu gọi dân Hải Phòng treo cờ mừng ngày “sinh nhật”; trong khi chúng giải thích với thực dân Pháp là dân treo cờ thỏa thận cho quân Pháp trở lại miền Bắc Việt Nam. Ngày sinh nhật 19-5 là một ngày “chính trị” chẳng phải là ngày thật và mục đích là đón cao uỷ Pháp D’Argenlieu cùng quân đội Pháp đổ bộ lên Bắc Việt (Hoàng Văn Chí, Từ Thực Dân đến Cộng Sản).
Ngày chết của Hồ trùng với ngày Quốc Khánh nên bị sửa thành ngày 3 tháng 9. Sau ít lâu bị lộ nên sửa lại cho đúng nhưng trong các tài liệu sau đó CSVN tránh ghi ngày chết mà chỉ ghi năm chết của Hồ, như ngụ ý sợ dân chúng ăn mừng nhân dịp Hồ chết. Hồ có thân thể mặt mũi xấu mà còn có thể gọi là cổ quái gian ác nếu là hình chụp trung thực và nếu là hình sửa thì thành tốt tướng hiền lành, nhưng nhìn kỷ bộ râu dê thấy có hình đầu lâu. Tất cã các hình do CSVN phổ biến đều là hình sửa chữa, hình giả.

Sự Nghiệp:

Hồ là con một tri huyện Nam Triều bị cách chức, vị này có quen biết nhà cách mạng Phan Châu Trinh. Toàn gia đình chống Pháp và không xa lạ gì với phong trào Ðông Du Phan Bội Châu. Tuy nhiên Hồ năm 1911 đã chọn con đường tiến thân khác, bằng cách xin làm quan với thực dân Pháp ngay khi xuất ngọai đến bến Marseille, Pháp (Richard Nixon, No More Việt Nams). Ðừng lầm lẫn với con đường Tây Du, xuất ngoại mưu cầu mở mang dân trí của Phan Chu Trinh. Hồ xin làm việc cho Nga Xô; rõ ràng Hồ có căn cơ làm tay sai vì sau đó Hồ theo Khang Sinh “Beria Trung Cộng”; tướng Trương Phát Khuê khen Hồ là biết phục vụ tốt, tướng Tiêu Văn khen là Hồ đã tỏ ra hối lỗi vì theo Cộng Sản, theo tình báo Hoa Kỳ O. S. S.

-Năm 1925, Hồ đã bán Phan Bội Châu, một nhà cách mạng chống Pháp hàng đầu lấy 10 vạn đồng (Richard Nixon, No More Vietnams).

-Năm Ất Dậu, 1945 tại Bắc Việt đã xẩy ra nạn đói đã do nhiều nguyên nhân: Mất mùa, do thực dân Pháp thu thuế cao, quân Nhật bắt trồng đay và bom đạn của phi cơ Hoa Kỳ. Tuy nhiên bom đạn Hoa Kỳ là nguyên nhân thiết yếu vì đường tiếp tế gạo ở trong Nam không chở gạo ra Bắc, gạo trong Nam thừa và rẻ đến nỗi đốt máy xe lửa và gạo ngoài Bắc đắt đến mức gấp 40 lần gạo trong Nam, hậu quả là dân quê nghèo chết đói khoảng 2 triệu người. Nạn đói chấm dứt khi Hoa Kỳ ngưng ném bom vào thời điểm Nhật đầu hàng. Sở dĩ bom đạn Hoa Kỳ năm 1945 hữu hiệu là nhờ tin tình báo và sự chỉ điểm của CSVN do Hồ lãnh đạo; Cơ quan O. S. S có thể quên không quan tâm đến tình trạng dân quê miền Bắc sẽ đói. Nhưng Hồ chắc chắn sẽ biết hậu quả việc cắt đường tiếp tế gạo Nam Bắc nhất là khi báo chí lúc đó loan tin bác sĩ Vũ Ngọc Anh bộ tưởng y tế xã hội và đoàn cứu tế mang gạo đã bị chết vì bom đạn phi cơ Hoa Kỳ trên đường công tác. Ngược lại Hồ còn lợi dụng nạn đói trong mục tiêu sách động quần chúng nổi dậy và ngay cả khi đã cướp được chính quyền Hồ còn lấy tiền trong quỹ cứu đói lạc quyên do chính phủ Trần Trọng Kim gom chung với Quỹ Tuần Lễ Vàng lạc quyên do chính phủ Hồ Chí Minh lạc quyên để hối lộ các tướng Tàu sang giải giới quân Nhật. Hồ tay đã nhúng chàm nên Cộng Sản Việt Nam không dám mở miệng đòi bồi thường về nạn đói đối với Nhật và Hoa Kỳ vốn là 2 nước giàu có và trọng trách nhiệm.

Ngày 9/3/1945 Nhật đảo chính Pháp và trả độc lập cho Việt Nam, ngày 11/3/1945 vua Bảo Ðại tuyên ngôn độc lập và thành lập chính phủ Trần Trọng Kim. Chính phủ đoản mệnh cầm quyền 5 tháng nhưng đã làm các bước căn bản đáng kể cho nền giáo dục. Hồ đảo chính chính phủ Trần Trọng Kim và ngày 2/9/1945 lại ra tuyên ngôn độc lập lần thứ hai.
Thực dân Pháp hay Tàu khi cai trị đã đem lại văn minh của họ, nhưng CSVN vì tầm văn hóa thấp (Hà Sĩ Phu) CSVN đã làm ngưng bước tiến văn minh của Việt Nam từ ngày 2/9/1945. Boris Yelsin coi nước Nga “tái sinh” và Nhất Linh Nguyễn Tường Tam coi nước Việt “mất nước” (di chúc 7/7/1963 Nhất Linh Nguyễn Tường Tam), dân Việt thành nô lệ thấp kém cho chính người nước mình, một chế độ bóc lột hơn thực dân Pháp, mức chênh lệch giữa thống trị và bị trị lớn hơn, nhân quyền bị vi phạm nhiều hơn và ngay cả tự do tôn giáo như thời Pháp thuộc cũng không còn.

Chiến tranh Việt Pháp chỉ xảy ra khi quân Pháp trở lại Việt Nam sau thế chiến 2, ở miền Nam nhờ quân Anh ngầm giúp cho đổ bộ, nhưng tại miền Bắc do Hồ chính thức mời bằng Hiệp Định 6-3-1946. Hồ giãi thích gian dối là chịu đựng Pháp còn hơn là phải chịu đưng Tàu, mặc dầu Hồ biết rõ Tưởng Giới Thạch tại hội nghị Yalta đã từ chối gợi ý của F. Roosevelt về việc để Tàu chiếm đóng Việt Nam và trên thực tế quân đội của Tưởng còn bận chống quân Trung Cộng tại Mãn Châu. Nguyễn Tường Tam, bộ trưởng ngoại giao, phản đối và từ chức ngày 6-3-1946. Lý do Hồ đón quân Pháp là để đánhh dẹp các chiến khu của quân quốc gia với sự hỗ trợ pháo binh và chiến xa của Pháp (Richard Nixon, No More VietNams).
Ngày 6-3- 1946 có thể coi là ngày bắt đầu cuộc chiến Việt Nam lần I, hoặc cụ thể hơn là ngày 19 tháng 5 năm 1946 ngày Hồ ra lệnh cho dân chúng treo cờ mừng sinh nhật của Hồ để luôn thể đón quân Pháp đổ bộ lên Hải Phòng Bắc Việt. Đáng lẽ CSVN bị tiêu diệt nhưng không ngờ Trung Cộng thắng chiếm lục địa năm 1949 và cứu CSVN, nhưng tội cõng rắn cắn gà nhà, phản quốc của Hồ đã tỏ rõ. CSVN và Hồ khoe thắng Pháp và dứt điểm với trận Điện Biên 1954.

Khi Trung Cộng chiếm lục địa 1949 và khi Anh Hoa Kỳ từ chối hỗ trợ cho nỗ lực chiến tranh của Pháp tại Việt Nam sau chiến tranh Triều Tiên 1952 thì Pháp đương nhiên phải thua. Không có trận Điện Biên Phủ Pháp cũng thua và trận Điện Biên Phủ chỉ là một trận thí quân không cần thiết. Pháo binh quyết định trận Điện Biên Phủ (trừ khi phi cơ Hoa Kỳ chịu lâm trận). Đại tá Piroth chỉ huy pháo binh Pháp tự vận ngay đợt pháo đầu tiên khai hỏa, pháo binh Trung Cộng cho CSVN phần lớn chở đến tận chỗ do quân xa Trung Cộng chuyên chở và do Trung Cộng bắn hộ khi cần; Điều thấy rõ là tương quan tớ chủ giữa phái đoàn CSVN và phái đoàn Trung Cộng tại Hội Nghị Genève. Võ Nguyên Giáp được đề cao là người chiến thắng, nhưng Trung Cộng dần dần tiết lộ vai trò then chốt của các tướng Tàu và vai trò của Võ chỉ là trình diễn, nhất là trong lúc lâm trận Võ mổi đêm đều phá trinh một cô thiểu số (Ls Lê Sĩ Giai)

Kết quả trận Điện Biên Phủ cho đảng CSVN quyền cai trị miền Bắc Việt Nam (miền Nam Việt Nam đã được Pháp trả độc lập cho vua Bảo Đại từ 1948). Nhưng dân Bắc chịu đựng ách cộng sản hà khắc và bắt đầu với cải cách ruộng đất ăn cướp tàn ác mà trong lúc chiến tranh Hồ chưa dám thi hành. Nhiều tác giả ngoại quốc ngờ nghệch cho rằng Tổng Thống Ngô Đình Diệm không chấp nhận tuyển cử sau hiệp định Genève đã làm chiến tranh Việt Nam lần 2 xâỷ ra. Họ không biết điều mà người dân Việt ai cũng biết: Khi bộ đội cán chính cộng sản họ đã nhất loạt dụng tâm để lại toàn bộ vợ con và điều nhắn nhủ sẽ trở lại, đường mòn Hồ Chí Minh để xâm lăng miền Nam 1956, nhưng được chuẩn bị dự trù cả năm trước. Dù sớm hay muộn con đường chiến tranh đánh thuê của Hồ, giống như của Fidel Castro và ngày nay do Kim Chính Nhật Hàn Quốc làm, chỉ vì họ không có tài năng kinh bang tế và “tầm văn hoá thấp” (Hà Sĩ Phu) của trào lưu cộng sản đánh thuê là con đường tất nhiên của Hồ và được Hồ gọi mỹ miều “Nghĩa Vụ Quốc Tế” Chiến tranh Việt Nam có vẻ như một cuộc nội chiến Nam Bắc, nhưng bản chất không phải vậy vì ngay từ 1925, Hồ đã bán Phan Bội Châu năm 1930 CSVN tung truyền đơn tố cáo với Pháp việc Việt Nam Quốc Dân Đảng nổi dậy (Hoàng Văn Đào) và trong lúc chưa chống xong Pháp CSVN đã thủ tiêu các lảnh tụ các tôn giáo, cuộc chiến mang mầu sắc ý thức hệ rỏ rệt và rỏ hơn hết do quyền lợi của riêng phe đảng cộng sản Việt.

Mặc dầu chiến tranh với Pháp đã xâỷ ra, CSVN tiếp tục giết các cán bộ đảng viên quốc gia, Trương Tử Anh, Lê Khang bị giết đầu năm 1947. Riêng họ Nguyễn Tường bị triệt hạ kể từ ngày Nhất Linh Nguyễn Tường Tam không chịu ký Hiệp Định Sơ Bộ 6-3-1946 cho đến năm 1954 thì họ Nguyễn Tường tại đất Bắc không còn một ai, nội cũng như ngoại. Ác là bản chất CSVN (Thích Quảng Độ), quy mô và không ngại bất cứ điều gì, nhưng mang bộ áo đạo đức nhân từ của Hồ Chí Minh. Người Á Đông tin nhiều vào một con người cụ thể khác với người Tây Phương tin nhiều vào định chế trừu tượng. Hồ Chí Minh dù chết đã nửa thế kỷ nhưng vẫn là thần tượng quan trọng của chế độ.

Mặc dầu người dân không tín tưởng Hồ như trước đây nhưng đảng cộng sản Việt Nam, toàn bộ các cán bộ cao cấp và đa số cán bộ trung cấp vẫn tuyệt đối thần kính Hồ, có thể có người giả vờ nhưng bề ngoài vẫn phải suy tôn.
Với sự sụp đổ lý thuyệt Mác Lê và các chế độ cộng sản, huyền thoại Hồ Chí Minh là sức mạnh tinh thần duy nhất của CSVN. Nói chạm nhẹ đến Hồ Chí Minh dù nhẹ như chuyện Hồ có vợ cũng là điều cấm và bị trừng trị.

Các nhà phản kháng dù trong hay ngoài đảng, các nhà trí thức đều không dám động đến Hồ, ngược lại họ còn dùng các lời nói của Hồ làm bung xung để thêm sức thuyết phục. Huyền thoại Hồ Chí Minh còn, đảng cộng sản Việt Nam còn sức mạnh tinh thần và như vậy chế độ còn vững chắc mặc dầu vô số khuyết điểm đầy râỷ bất mãn. Bóng ma Hồ Chí Minh tan, sự kềm toả cuả chế độ Mác Lê sẽ không còn chống nổi sự bất mãn chống đối của dân chúng, của các tôn giáo và các lực lượng quần chúng chính trị. Ánh sáng trí tuệ, đạo đức ngay thẳng sẽ trở lại trên quê hương để Việt Nam tái sinh; trong nước và hải ngoại cùng nhau, trong dân chủ tự do, phấn chấn xây dựng đất nước.

San Jose thang 7/2003