mercredi 15 août 2007

AGIT–PROP Tuyên Truyền Và Vận Động

AGIT–PROP

Minh Võ

Trước hết tôi phải xin lỗi độc giả vì lại dùng ngoại ngữ để làm tiêu đề cho bài này, sau khi đã có một bài với cái tựa Orchestration.

Từ Orchestration dùng trong trường hợp nói về chiến tranh, tiếng Việt không có từ tương đương. Dịch là Phối Khí, hay Hòa Âm thì lại chỉ có nghĩa đen về âm nhạc, không áp dụng vào chiến tranh hay tuyên truyền được. Cho nên đành để nguyên một từ đã trở thành quốc tế.

Lần này danh từ kép Agit-Prop cũng vậy.

Đây là viết tắt của hai từ Agitatsiya-Propaganda (Agitation-Propaganda) mà trong tiếng Việt có người dịch là Tuyên Vận (viết tắt của Tuyên Truyền Và Vận Động Quần Chúng). Cách dịch này tuy tạm ổn, nhưng có vẻ hiền lành theo tinh thần công tác của các chính quyền quốc gia, dân chủ nên vẫn không diễn tả được trọn vẹn ý nghĩa của nguyên ngữ vốn cô đọng trong 2 từ Agit-Prop là Khuấy Động-Tuyên Truyền. Đầy đủ hơn thì nội dung của Agit-Prop phải được hiểu là khuấy động quần chúng và tuyên truyền chính trị.

Đây còn là danh xưng một cơ quan quan trọng trong chính quyền Liên Xô là bộ Agit-Prop. Bộ phận tuyên truyền của trung ương đảng cộng sản Trung Quốc cuối thập niên 20 và đầu thập niên 30 do Lý Lập Tam kiêm nhiệm với chức ủy viên thường vụ bộ chính trị dưới quyền của Hướng Trung Phát cũng rập khuôn theo mẫu mực Agit-Prop của Liên Xô. Bộ Tuyên Truyền trong chính phủ đầu tiên của Hồ Chí Minh do Trần Huy Liệu làm bộ trưởng cũng thế. Nhưng về sau để đánh lừa dư luận, Hồ Chí Minh đã bỏ bộ này, đồng thời cũng giải tán đảng cộng sản, biến nó thành hội nghiên cứu Marx-xít (nòng cốt) và đảng Lao Động (ngoại vi). Nhưng “đội vũ trang tuyên truyền” của Võ Nguyên Giáp thì vẫn được duy trì rồi phát triển thành “lực lượng võ trang nhân dân” sau này, giống hệt như chủ trương tuyên truyền bằng bạo lực, vũ trang của Lý Lập Tam ở Trung Quốc.

Agitprop
Nguồn: wikipedia.org
--------------------------------------------------------------------------------

Trong bài này, chúng tôi xin miễn bàn về tổ chức, điều hành của cái bộ đặc biệt này. Mà chỉ nói đến nội dung công tác tuyên truyền chính trị và khuấy động quần chúng của nó mà thôi.

Sau bài Orchestration, có độc giả phê bình là nói bóng bảy “cao siêu” quá, lắm chỗ không biết người viết muốn nói gì. Thực ra, orchestration là tột đỉnh của tuyên truyền vì nó phối hợp sử dụng tất cả mọi hình thức tuyên truyền và khuấy động quần chúng một cách cao và đầy đủ nhất, khác nào nhạc sĩ sáng tác hòa âm đã sử dụng đến tất cả các nhạc khí, nhạc cụ để dàn dựng nên một tuyệt tác nhạc giao hưởng. Vì thế bài này có mục đích trở lại những kiến thức cơ bản về tuyên truyền của cộng sản, để giúp một số độc giả hiểu thêm về orchestration hơn. Dĩ nhiên, đây chỉ là tóm tắt đại cương mấy điểm cơ bản thông thường, vì nếu bàn kỹ ra cần phải có cả một pho sách lớn.

Ngày nay ta đã quá quen với từ Propaganda, cho nên khi nói tuyên truyền là hiểu ngay đó là tuyên truyền chính trị. Nhưng vào thế kỷ 19, nó hãy còn đuợc hiểu một cách đơn sơ là truyền bá, loan truyền. Tòa thánh Vatican có một bộ gọi là thánh bộ truyền giáo (Propaganda Fide), không ai dịch là bộ tuyên truyền đức tin cả.

Chữ agitation do động từ agitate (gốc từ động từ La Tinh agito) có nghĩa là lắc, lay động, lay chuyển, khuấy động … Ở đây, hiểu ngầm là khuấy động quần chúng. Người cộng sản để hai công tác tuyên truyền và khuấy động quần chúng vào làm một bộ phận duy nhất. Vì trong thực tế, hai công tác đó như bóng với hình, thường hỗ trợ lẫn nhau, chồng chéo lên nhau, quyện vào nhau, xoắn lấy nhau, rất khó phân biệt. Nhưng muốn hiểu đến nơi đến chốn về lý thuyết thì cần tách ra làm hai để dễ phân tích.

Tuyên truyền có mục đích đem đến cho một đối tượng – hay một nhóm đối tượng có lập trường khuynh hướng giống nhau – nhiều hay rất nhiều ý, nhằm lôi cuốn họ đi theo chiều hướng của mình, chấp nhận lập trường của mình, hành động theo ý mình. Điều này rất khó nếu những tin tưởng, suy nghĩ, sinh hoạt của đối tượng trái ngược với ta.

Cán bộ tuyên truyền có thể dùng nhiều hình thức khác nhau để đạt mục đích tuyên truyền như dùng lời lẽ trong các câu chuyện riêng tư, trong các buổi tọa đàm… hoặc dùng những tài liệu, sách báo, tranh ảnh, truyền đơn vv…
Những cử chỉ, thái độ, hành động của một người, một lãnh tụ, hay chiến thắng của một đơn vị, hoặc nhỏ, hoặc lớn từ tiểu đội đến đại đoàn đều có thể có một tác dụng tuyên truyền nào đó.

1. Tuyên truyền chính trị cũng như giáo dục và quảng cáo thương mại thường dựa vào những định luật tâm sinh lý giống nhau.

Hai nhà tâm lý học thực nghiệm Pháp là hai anh em Pierre Janet và Paul Janet đã dựa vào những cuộc thí nghiệm trên những bệnh nhân thần kinh u uất để chứng minh rằng hành động là kết quả của ý niệm. Khi chỉ có một ý duy nhất trong đầu bệnh nhân, thì lập tức ý đó biến thành hành động.

Khi có nhiều ý thì ý nào chiếm ưu thế, ý đó sẽ có khả năng nhất để biến thành hành động. Các nhà duy vật có thể bảo đó là theo chủ nghĩa duy tâm, lạc hậu. Nhưng không thể phản bác những kết quả cụ thể của công cuộc thí nghiệm theo đúng tiêu chuẩn khoa học thực nghiệm của hai nhà bác học này. (1)

Dĩ nhiên những nhà tuyên truyền cộng sản, theo thuyết duy vật, không thích lối giải thích duy tâm đó. Họ tìm tới Ivan Petrovich Pavlov (Nobel 1904), một khoa học gia người Nga, với thuyết phản ứng điều kiện, bắt nguồn từ những thí nghiệm trên con chó với tiếng chuông, để đi đến kết luận mọi hành động của con người đều do sự điều kiện hóa một cách máy móc.

Vì thế ông Hồ (có lẽ bắt chước Voltaire) đã từng có lần nói với cán bộ tuyên truyền rằng: “Nói láo, cứ nói láo, ban đầu người ta không tin, rồi nói mãi ngưòi ta cũng bán tín bán nghi, rồi thì cuối cùng tin như thật.” Chính vì chủ trương như vậy, cho nên khi tại Việt Nam xuất hiện lần đầu cái bộ tuyên truyền và đội vũ trang tuyên truyền, trong dân gian đã có thành ngữ “nói dối như Vẹm”. (2)

Muốn thu lượm kết quả, các nhà tuyên truyền, ngoài việc nắm vững quy luật về tâm sinh lý nói trên, còn phải “điều nghiên” (chữ CS thường dùng: điều tra, nghiên cứu) về đối tượng, khác nào nhà trồng trọtmuốn gieo trồng một giống rau, giống lúa … phải nghiên cứu đất xem cần đào xới theo phương pháp nào, cần thêm phân bón gì, độ ẩm bao nhiêu vv… Sau đó mới lựa cách thích hợp với từng đối tượng để tiếp cận và truyền đạt ý tưởng của mình: những triết thuyết, chủ nghĩa, chủ trương, lập trường chính trị … là những điều phức tạp cao siêu, hay chỉ là một lời khen, lời mời gọi, một gợi ý nhỏ, đơn sơ.

Với một cán bộ tuyên truyền cấp thấp, công việc có khi thật khó khăn, đòi nhiều thời gian, để thuyết phục đối tượng. Nhưng với những người có thiên khiếu về đắc nhân tâm, nhất là lại có cái mà ngoại ngữ gọi là “charisma” tức sức thu hút lạ lùng của lãnh tụ, thì có khi chỉ cần một lần tiếp xúc, một vài lời nói, một cử chỉ, một cái nhìn cũng có thể lôi cuốn đối tượng. Người ta thường nghe đồn về việc ông Hồ đã thu phục Tạ Đình Đề, Thụy An, Trần Đại Nghĩa theo cách đó. Và trong hồi ký của Trương Như Tảng, ông này đã thuật lại bị ông Hồ thuyết phục ra sao trong dịp ông ta và một nữ sinh cùng lớp tiếp xúc với ông Hồ ở thủ đô Paris của Pháp. Chỉ nguyên lời ông Hồ nói với hai sinh viên trẻ này rằng đừng gọi ông là chủ tịch mà hãy gọi ông một cách thân mật là bác đã đủ khiến họ cảm mến và muốn đi theo rồi. Trong cuốn tiểu sử của giám mục Lê Hữu Từ nhan đề Giám mục Lê Hữu Từ và Phát Diệm, tác giả cũng thuật lại rằng ông Hồ đã dùng tới tuyệt chiêu của ông để cố chinh phục niềm tin của nhà tu hành này:

Trong lúc chỉ có hai người trong một bầu không khí thân mật cởi mở, ông Hồ, theo lời của vị giám mục nói lại với tác giả, đã ngỏ lời xin giám mục rửa tội cho mình! Có điều vị giám mục không bị lừa bởi con người khôn khéo nhưng giả dối này.

Những Phan Kế Toại, Bùi Bằng Đoàn … đã bị ông Hồ chiêu dụ dễ dàng. Thậm chí cả Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam cũng bị lừa khi nghe lời đường mật của ông Hồ, và lời khuyên – gần như cưỡng ép – của các tướng Tầu Lư Hán, Tiêu Văn để nhận lấy 70 ghế không được bầu trong “quốc hội” (hoàn toàn biếu không như một món quà hối lộ!) và mấy chức phó chủ tịch, bộ trưởng … cũng đã mắc mưu ông Hồ, nếu không nói là bị quái chiêu “tuyên truyền” của ông ta chinh phục.

Chỉ có ông Ngô Đình Diệm không bị lừa, không nghe ông ta mà nhận chức bộ trưởng nội vụ và đã may mắn thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Có người cho rằng ông Hồ không để đàn em “thịt” ông Diệm là nhằm mục đích dùng hành động đó tuyên truyền lấy lòng cộng đồng công giáo lúc ấy, hoặc ít nhất ông Hồ cũng nhận thức được rằng giết ông Diệm lúc ấy sẽ gây ác cảm với cộng đồng giáo dân là một tập thể mà ông Hồ cho rằng không thể thiếu trong cái mặt trận Việt Minh “cứu quốc” giả dối của mình.

Những người vốn có thiện cảm với ông Hồ thì cho rằng ông Hồ kính nể thân phụ ông Diệm là Ngô Đình Khả – người đã sáng lập trường Quốc Học Huế mà Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp … đều là học sinh sau này. Ông Ngô Đình Khả là người duy nhất trong triều lúc ấy đã can đảm chống lại việc thực dân Pháp xử biệt xứ vị vua yêu nước Thành Thái, rồi sau nổi tiếng với câu “đầy vua không Khả, đào mả không Bài”, truyền tụng nơi cố đô, mà ông Hồ cũng biết và chính ông ta đã viện dẫn câu đó để giải thích với đàn em về việc ra lệnh cho phóng thích ông Diệm. (3)

Ap dụng 5 chữ W (Who, What, When, Where, Why) của Mỹ vào tuyên truyền, cán bộ tuyên vận phải lựa lời mà nói, tùy lúc, tùy nơi, tùy người mà nói thì mới đạt kết quả mong muốn. Về điểm này cứ xét lý do thay đổi chính sách và đối tượng tuyên truyền tùy theo tình hình thế giới và tình hình trong nước, tùy theo sự thành bại của phong trào vận động quần chúng trong nước thì có thể hiểu tuyên truyền mà không đúng lúc cũng rất tai hại. Ví dụ khi mới thành lập và thống nhất (1930) cán bộ còn non nớt, hăng say nghe theo đường lối của QT3 theo nghị quyết đại hội kỳ 6, muốn sớm đưa cách mạng cộng sản, cách mạng giai cấp đến thắng lợi, họ bèn kêu gọi công nhân, nông dân nổi dậy lập những tổ chức giống như ở Nga, gọi là Xô Viết, mà mạnh nhất là ở vùng Nghệ Tĩnh, nên mới có cái gọi là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh với khẩu hiệu sắt máu “Trí Phú Địa Hào, đào tận gốc, trốc tận rễ.” Đó là khẩu hiệu rất kêu, rất hấp dẫn đối với giới vô sản, thành phần mà cộng sản cho là nòng cốt của cách mạng giai cấp. Nhưng đợt ra quân đầu tiên này đã chuốc lấy thảm bại. Nhiều cán bộ bị bắt, bị giết, tổ chức tan tành vì phát động không đúng lúc, chưa đến lúc. Lý do thất bại là vì không điều nghiên kỹ về đối tượng. Dân chúng Việt Nam lúc ấy chỉ muốn độc lập, không muốn cách mạng cộng sản, không muốn đấu tranh giai cấp. Hồ Chí Minh đã rút kinh nghiệm. Ngay lập tức, ông ta tìm cách len lỏi vào các tổ chức cách mạng dân tộc ở Hoa Nam, thề trước các cán bộ Trung Hoa Quốc Dân Đảng rằng mình không phải cộng sản. Trong nước, các nhóm đệ tam liên kết với đệ tứ, với các đoàn thanh niên không cộng sản. Cộng sản đưa ra một lời kêu gọi mới: mặt trận chống đế quốc ra đời. Rồi mặt trận thống nhất dân tộc, mặt trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh (gọi tắt là Việt Minh). Toàn là những tổ chức có cái tên nhuộm màu sắc dân tộc. Nhưng trên thực tế thì mặt trận nào cũng chỉ là cái vỏ bề ngoài trong khi cốt lõi vẫn là các đảng viên cộng sản, hoạt động theo đường lối của QT3, thay đổi tùy theo sự thay đổi của tình hình thế giới được phản ánh qua các nghị quyết của các đại hội.

Chính sự thích nghi với hoàn cảnh, chiều theo xu hướng và nguyện vọng của nhân dân lúc ấy mà thay đổi đề tài tuyên truyền đã đánh lừa được nhiều ngưòi cứ nhìn cái vỏ xanh bề ngoài (chủ nghĩa dân tộc ngụy trang)không biết đến cái lòng đỏ bên trong (chủ nghĩa quốc tế vô sản tức cộng sản).

Để giữ cho cái vỏ xanh bên ngoài khỏi trầy da tróc vẩy mà để lộ cái lòng đỏ bên trong, bộ máy tuyên truyền cộng sản đã vận dụng mọi phương tiện, huy động mọi thành phần tổ chức, nam phụ lão ấu, tập trung họ vào những đoàn thể gọi là “cứu quốc” nhồi nhét vào đầu họ rằng Việt Minh là một phong trào, một mặt trận yêu nuớc. Sách báo, tranh ảnh, bích chương, truyền đơn, bươm bướm, khẩu hiệu, biểu ngữ, và mọi loại tác phẩm hội họa, âm nhạc, điêu khắc … được sử dụng tối đa để làm cho nhân dân tin vào đường lối của mặt trận. Nhưng mặt trận chỉ là cái vỏ. Cái cốt lõi là đảng cộng sản. Một đôi khi, ở một nơi nào đó, trong một lãnh vực nào đó cái vỏ xanh bị vỡ, lòng đỏ bên trong lòi ra, thì lập tức sửa sai, giải tán, tự phê … Chung quy mọi biện pháp cần thiết đã được thi thố để cố bảo vệ cái vỏ hầu che giấu cái cốt lõi là cuộc cách mạng vô sản không suy suyễn.

2. Khuấy động quần chúng có mục đích đem đến cho đại chúng hay nhiều tầng lớp nhân dân trong cùng một lúc chỉ một hai ý đơn sơ nhưng mãnh liệt, khiến cả đám đông ồ ạt đi theo chiều hướng, làm theo ý muốn của người chủ xướng.
Những diễn văn ngắn, những bài thuyết trình cô đọng, ít dùng lý luận, nhưng chứa nhiều lời hô hào, kêu gọi làm phấn chấn lòng dân, những khẩu hiệu như ủng hộ, đả đảo, vạn tuế, muôn năm … thường có tác dụng khuấy động quần chúng. Nếu đưa ra vào một lúc thích hợp, thời cơ thuận lợi, tình hình đã chín mùi, chúng có thể biến một đám đông ù lỳ trở thành năng động, lôi cuốn họ dấn thân vào những hành động nguy hiểm như một dòng thác, như một bầy thiêu thân.

Khuấy động (hay vận động) quần chúng thường được thực hiện, dựa vào những định luật về tâm lý quần chúng, có phần khác với tâm lý cá nhân thông thường. Một vài ví dụ sau đây có thể cho thấy sự khác biệt đó.

Trong một rạp hát hay hội trường, khi có một, hai người vỗ tay thật lớn, thì hầu như mọi người trong đó liền vỗ tay theo, dù phần đông chẳng hiểu họ tán thưởng cái gì.

Các nhà tâm lý đã làm cuộc thí nghiệm như sau: trước một cử tọa đông đảo, nhà tâm lý mở nút một chiếc lọ rỗng không, trong đó chẳng có bất cứ chất đặc, chất lỏng hay chất hơi nào cả. Tuy nhiên, nhà tâm lý bảo với cử tọa rằng trong lọ có chứa một chất hơi với mùi tỏi nồng nặc, rồi ông ta hỏi có ai ngửi thấy mùi tỏi không. Kết quả có nhiều cái đầu gật, gật, và những bàn tay giơ lên.

Những ví dụ trên chứng minh thành ngữ Pháp Mouton de Panurge không phải chỉ có nghĩa đen về những con cừu, mà còn đúng cả về nghĩa bóng đối với một số người, nhất là khi họ tập họp thành một đám đông (quần chúng), ít còn, hay không còn, sống với tri thức thông thường của cá nhân mình mà sống bằng một tâm lý tập thể, tâm lý quần chúng.


Hồ Chí Minh: “đồng bào có nghe tôi rõ không?”
Nguồn: marxists.org
--------------------------------------------------------------------------------

Các nhà tuyên truyền chính trị, nói chung các nhà chính trị, thích “chơi” trên những “phím đàn” tâm lý này. Khi ông Hồ hay ngắt quãng trong những bài diễn văn ngắn, đơn sơ, bình dị của ông bằng những câu hỏi “đồng bào có nghe tôi rõ không?” … hay giơ tay thề trước đám đông: “Tôi thề không bán đứng tổ quốc, đồng bào hãy tin tôi…” là lúc ông ta tỏ ra khá điêu luyện về phím đàn tâm lý quần chúng. Và cán bộ của ông ta – đã được rèn luyện về khoa tuyên truyền khuấy động – đứng trong đám đông sẽ là những kẻ đáp lại câu hỏi của ông ta trước tiên, hay cất tiếng hoan hô trước tiên, khơi động cho cả ngàn tiếng vang lên “Rõ” (để trả lời câu hỏi), “Hồ chủ tịch muôn năm” (để đáp lại câu “đồng bào hãy tin tôi”)…

Trong cải cách ruộng đất tại miền Bắc những năm 55-56, những khẩu hiệu hô lớn của đám đông “đả đảo địa chủ gian ác”, hay các điệp khúc ngắn do nhi đồng, thiếu nhi hát trong làng vừa hát vừa đánh trống cơm: “Cắt đứt là cắt đứt, Dứt khoát là dứt khoát, Không vương vấn giai cấp địa chủ” đã có tác dụng làm khiếp đảm những nông dân “có máu mặt” và khơi lên trong toàn bộ nông thôn một làn sóng đấu tranh ngút trời với lòng hận thù giai cấp ngùn ngụt.(4)

Hình ảnh những nông dân có dăm ba mẫu ta ruộng bị quy là địa chủ qùy gối trước tòa án nhân dân gồm những bần cố nông vô học chỉ biết làm theo lệnh của đội trưởng cải cách, hay bị đứng như trời trồng dưới hố sâu hàng giờ để nghe xỉ vả lăng nhục trong bầu không khí cuồng loạn của đấu tranh giai cấp cho ta thấy tác dụng xuất qủy nhập thần của “khuấy động quần chúng” của cộng sản.

Tại sao chúng tôi chỉ toàn trưng dẫn những hành động của cộng sản để minh họa cho lập luận về tuyên truyền và khuấy động quần chúng?

Bởi vì như đã trình bày ngay ở đầu, đây là ngón sở trường của phe cộng nói chung và của Việt Cộng nói riêng. Và phải thú thực, chúng ta đã thua vì kém địch thủ về tuyên truyền.

Tuyên truyền của cộng sản đã biến ít thành nhiều, biến bại thành thắng, trắng thành đen, ngụy nghĩa thành chính nghĩa. Những người “quốc gia” nạn nhân của cộng sản thường nguyền rủa ông Hồ Chí Minh. Những cựu cán bộ cộng sản hay những người vì lầm lẫn từng đi theo mặt trận Việt Minh trong một thời gian dài cũng nói ông Hồ là xấu. Thậm chí có người gọi ông ta là Ma Đầu (như Hoàng Quốc Kỳ), là Qủy Chúa (như Nguyễn Chí Thiện), Qủy Vương (như Vũ Thư Hiên, gián tiếp qua lời một người bạn của ông là tiểu đoàn trưởng Đích). Thế mà nhờ tuyên truyền, ngày nay HCM vẫn được tôn sùng. Không phải chỉ có Võ Nguyên Giáp viết trên Tạp Chí Cộng Sản số 24, tháng 12, 1999 rằng “Làm theo lời HCM thì thắng lợi, làm sai tư tưởng HCM thì thất bại; thế giới đổi thay, nhưng tư tưởng HCM sống mãi …” Không thiếu những nhà văn, nhà báo, sử gia tên tuổi trên thế giới, kể cả các tác giả soạn tự điển bách khoa của Mỹ, của Anh … mãi đến tận năm 2000 vẫn ca tụng HCM hết lời.

(Còn tiếp)


© DCVOnline
--------------------------------------------------------------------------------

(1) Cách nay 11 năm, tại Mỹ, những cuộc thí nghiệm suốt gần 20 năm của bác sĩ Dorsey cũng đi đến kết luận rằng lời cầu nguyện có ảnh hưởng đến cách chữa bệnh, nhất là bệnh tim, đã làm dư luận trong giới khoa học gia Mỹ xôn xao.
(2) VẸM là viết tắt của 2 chữ Việt Minh, do cộng sản hoàn toàn chi phối. Việt Minh, chỉ mặt trận Việt Minh, là viết tắt của 7 tiếng “Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội” ban đầu do ông Hồ Học Lãm làm chủ nhiệm, gồm có nhiều đảng phái quốc gia và cả một số đảng viên cộng sản, trong đó có HCM hoạt động ở Hoa Nam trong thập niên 20 và 30; về sau Hồ Chí Minh dùng mánh lới và tuyên truyền dối trá dần dần thao túng Hội này, trừ khử những thành phần quốc gia chống cộng, để cuối cùng hoàn toàn điều khiển nó, biến nó thành cái gọi là mặt trận Việt Minh.
(3) Xem Đêm Giữa Ban Ngày của Vũ Thư Hiên, Paris, 1988, trang 226-227
(4) Xem Những Thiên Đường Mù của Dương Thu Hương.

http://www.danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=article&sid=3775

NHỮNG MỴ TỪ CỦA BỌN NGỤY QUYỀN

NHỮNG MỴ TỪ CỦA BỌN NGỤY QUYỀN

Như quý vị cũng đã biết những chuyện bê bối về những gian thương làm nước mắm và nước tương xãy ra ở trong nước, khiến cho chúng ta là người tiêu dùng thật bở ngỡ và búc súc. Trước khi những vụ này được phanh phui ra ánh sáng, người tiêu dùng luôn tin tưởng ở những sản phẩm chế biến nước mắm, nước tương bởi những mỹ từ trên những nhãn hiệu: Đảm Bảo An Toàn, Thơm Ngon, Bạn Của Các Bà Nội Trợ, Chất Lượng Cao, Số Một, v.v… Nhưng rồi, nước tương, nước mắm cũng chỉ được phê chế mất vệ sinh, pha trộn hóa chất, không được bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng. Thế mà những sản phẩm này vẩn được bày bán khắp nơi, chiêu dụ người tiêu dùng bởi những mỹ từ hay và mẩu mã đẹp.

Đó chỉ là những chuyện nước tương, nước mắm thôi. Thật ra còn có một số mỹ từ mà chính bọn ngụy quyền “Đảng và Nhà Nước” VN đang dùng còn nguy hại hơn nhiều. Hiện nay, trên tất cả giấy tờ hành chánh, đơn từ đều có những mỹ từ: Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc để quảng cáo cho một đảng phái hiện đang hành trị đất nước Việt Nam chúng ta. Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) đã đưa ra những mỹ từ này hòng chiêu dụ được lòng tin yêu của những người tiêu dùng như bạn và tôi.

ĐỘC LẬP

Kể từ khi Hồ Chí Minh ra Ba Đình đọc bài “Tuyên Ngôn Độc Lập” mà ông ta đã vay mượn văn từ, ý nghĩa từ bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Mỹ, đất nước đã không còn bị thực dân Pháp đô hộ nữa. Tuy nhiên, cái nhà nước “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” quả chưa thực sự “Độc Lập” khi chính quyền Hồ Chí Minh như những con rối nước bị điều khiển bởi nhóm đàn anh CS ở Moscow và Beijing.

Mọi hành xử chính trị của Hồ Chí Minh đều được chỉ đạo từ bọn đàn anh Cộng Sản Đệ Tam. Từ những ý thức hệ Vô Sản, đánh Tư Sản, Cải Cách Ruộng Đất đến hình tượng, khẩu hiệu, lá cờ quốc gia đều được đúc khuôn từ cái lò Moscow mà ra. Từ lúc Đảng CSVN ra đời, người dân Việt Nam đi đâu, lúc nào cũng nhìn, nghe thấy ảnh tượng ông Tây, người Nga. Học sinh Việt Nam đã phải bị bắt học tiếng Nga, văn hóa Nga. Người ta cứ liên tưởng như một nước Nga trong lòng đất mẹ VN. Trong mọi ý tưởng của nhóm Hồ Chí Minh lúc nào cũng hướng về đất thánh Moscow.

ĐCSVN vốn là nhóm nô lệ ý thức hệ. Lúc thì họ tôn thờ, vinh danh Lênin, Carl Max thì không thân thiện với Trung Quốc. Vào những năm 1979 đến 1984, Việt Nam và người “anh em” Trung Hoa đánh nhau chí tử, mãi đến 1999 mới chính thức giãi hòa. Cuộc chiến này đều bị chính quyền hai bên giấu nhẹm như mèo giấu kứt vây. Sau khi, Liên Xô tan rã, ĐCSVN không còn chỗ dựa, trong khi đó, chỉ có Trung Quốc vững mạnh nhất trong nhóm CS còn lại, thế là ĐCSVN đi chơi lại với Trung Quốc.

Đài Loan, Nam Hàn tuy được Mỹ bảo hộ, nhưng Hiến Pháp của họ không hề vinh danh, lệ thuộc chính quyền Mỹ. Trong khi hiến pháp Việt Nam thì ngược lại, ĐCSVN vẩn lệ thuộc vào nhóm quan thầy Nga-Xô. Điều 4 hiến pháp Việt Nam vẩn ghi rỏ rằng:

“Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghia Mác - Lê Nin và tu tuởng Hồ Chí Minh, là lực luợng lãnh đạo Nhà nuớc và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”

Ngày nay, dân mình bị Trung Quốc bắn giết. Thác Bản Dốc, Ải Nam Quan, Hoàng Sa, Trường Sa bị TQ lấn chiếm, thế mà ĐCSVN chỉ nhẹ nhàng lên tiếng phản đối cho qua loa có lệ. Quả thật, ĐCSVN không dám chống đối được TQ, vì mọi an ninh quốc phòng, kinh tế, chính trị đều do TQ bảo kê hết. Hơn nữa, con số 2 triệu đảng viên chỉ biết tham nhũng, kinh doanh thu đô la vào túi, ăn to béo mập thì sao đối lại với 2 triệu quân đội Trung Quốc hùng hồ, mạnh liệt được?!

TỰ DO

Tháng 4, 1975, miền Nam Việt Nam bị “giải phóng”. Lại một mỹ từ thật đẹp, “Giải Phóng”. Sau ngày “Giải Phóng”, mọi quyền tự do cơ bản con người dường như dần mất hết và trở nên khan hiếm. Trước đó, người dân miền Nam còn được quyền tự do biểu tình, mà trong đó có rất nhiều người “Phản Động” đã được ân huệ này để làm náo loạn hệ thống chính trị miền Nam. Thế mà ngày nay, đồng bào người Thượng Tây Nguyên tổ chức biểu tình ôn hòa đòi tự do tôn giáo và phản đối chính quyền cướp đất tổ tiên của họ thì lại bị bắt, kêu án một cách nặng nề. Hiện nay, có rất nhiều người Thượng vẩn phải lẩn trốn trong rừng hay đã và đang vượt biên sang Miên vì bị ĐCSVN đang truy lùng, giam bắt vì họ có liên can đến vụ biểu tình hồi năm 2001.


Quyền tự do báo chí rất mơ hồ! Trong nước có hơn 600 tờ báo cầm tay và điện tử, nhưng đều phải bị sự chỉ đạo của ĐCSVN. Chỉ đảng viên CS mới được làm, ra báo. Mọi tin tức có liên quan đến chính trị, kinh tế đều phải thông qua Bộ Văn Hóa Thông Tin. Nếu đăng mà không đẹp lòng BVHTT thì sẽ bị đình chỉ, phạt vạ, đuổi việc, thậm chí bị bỏ tù. Hiện nay có rất phóng viên bị tra vắn vì đã viết về những vụ tham nhũng lớn ở VN. Thật tội nghiệp cho giới làm báo VN phải đi lề bên phải trên con đường một chiều!

Quyền tự do thông tin thì bị cấm đoán, ràng buộc. ĐCSVN bắt chước Trung Quốc tìm mọi cách ngăn chặn mọi thông tin hiện đang phổ biến lan rộng trên internet bằng những kỷ thuật tân tiến. Bắt buộc người chủ internet phải theo dỏi, nằm vùng người xử dụng truy cập và phải báo ngay với công an, nếu không sẽ bị rút giấy phép kinh doanh. ĐCSVN ngụy biện nói rằng làm vậy để ngăn chặn các trang web đồi trụy, nguy hại đến người dân. Hư thực thế nào, mà người ta lại cứ dễ dàng truy cập được các trang đồi trụy, khỏa thân, dành cho người lớn; còn những trang cung cấp tin tức, sự thật về ĐCSVN thì gặp nhiều trở ngại, khó khăn khi truy cập.

Quyền tự do đi lại rất cơ bản. Tuy nhiên nó cũng bị hạn chế. Đi đâu, ở chổ nào cũng phải khai báo Tạm Trú, Tạm Vắng với chính quyền sở tại. Ngoài giầy chứng minh nhân dân ra, nơi nào cũng phải có hộ khẩu gia đình, để cho ĐCSVN dể dàng kiểm soát. Hầu hết những dân lao động tứ xứ vào các thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn đều bị coi như bất hợp pháp, bởi vì họ không có hộ khẩu ở nơi họ tạm cư. Nếu không có hộ khẩu, thì con em họ khó mà được đi học đoàng hoàng. Việt Kiều về thăm quê hương cũng phải đăng ký xin phép. Gần đây thủ tướng VN ra nghị quyết miển Visa cho Kiều bào về thăm quê hương. Tuy nhiên cũng phải làm đơn xin phép toà đại sứ trước khi về nước, thủ tục còn rồm rà hơn.

Chuyện tín ngưỡng, tôn giáo như thấy rất dể dàng ở cái thiên đường XHCN này. Tuy nhiên, muốn được chính quyền nhìn nhận, các tôn giáo đều phi đăng ký, xin mới được hợp pháp. Một số tôn giáo đợi mãi 20 năm, 30 năm mới được ĐCSVN nhìn nhận. Hiện nay, có nhiều giáo phái Tin Lành, Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất và các tôn giáo khác vẩn còn phải thờ phượng một cách lén lút. Mà dù cho có được ĐCSVN nhìn nhận, nhưng chuyện kỳ thị, ỷ quyền thế đàn áp người khác đức tin vẩn là chuyện thường. Các tín đồ Phật giáo Hòa Hảo bị cấm đoán không được tưởng niệm ngày vị giáo chủ của họ lâm nạn. Những người sắc tộc theo đạo Tin Lành bị chính quyền kỳ thị cho là họ theo đạo của Mỹ, Tư Bản. Một số giáo phái thuộc đạo Mẫu thì bị chính quyền cho là mê tín do đoan, buôn thần bán thánh.


Những mỹ từ của điều 69 hiến pháp như chiêu dụ chúng ta nhận biết là VN cũng có những dân quyền, dân chủ. Thế nhưng ĐCSVN lại bắt bớ, đàn áp, kêu án giam cầm những người Đấu Tranh cho Tự Do và Dân Chủ. ĐCSVN không chấp nhận một đảng phái nào khác ngoài đảng CS. Hiện nay, có nhiều đảng phái ra đời, những chỉ dám hoạt động lén lút mà thôi. Hể ai dám lên tiếng đối lập với ĐCSVN, hoặc nói sự thậy thì bị gép vào thành phần “Phản Động”. ĐCSVN kêu án, giam cầm rất nhiều tù nhân có liên quan đến chính trị, thế mà ĐCSVN chối oanh oanh là VN không có giam giử tù nhân chính trị.


HẠNH PHÚC

ĐCSVN lúc nào cũng vổ ngực khoe khoang rằng kinh tế VN phát triển và giàu có. Nhưng thực tế VN vẩn chưa là con rồng, con hổ ở vùng Châu Á. Hàng năm, ĐCSVN vẩn đưa hàng ngàn người dân đi Xuất Khẩu Lao Động. VN đã và đang nhận viện trợ từ Ngân Hàng Thế hàng tỉ đô la cho những việc Xóa Đói Giãm Nghèo. Không biết trong hàng tỉ đô la đó, dân nghèo nhận được nhiêu, hay bao nhiêu căn nhà Tình Nghĩa được xây lên cho họ. Chúng ta chỉ thấy khắp nơi, các cơ quan nhà nước, ỷ ban nhân dân, công sở chính quyền, nhà ở của các cán bộ thì được xây khang trang, đồ sộ, mới lạ và rất đẹp mắt.

Hàng năm, người dân phải đóng biết bao nhiêu là thuế: thuế bất động sản, thuế thương mại, thuế thu nhập, thuế xe, thuế vận tải giao thông, thuế mua bán, v.v.. Vậy mà người dân cũng phải đóng học phí 2 lần trong một năm để cho con em của họ được đi học. Người nghèo, già neo đơn khi bị bệnh thì chỉ có mong ở phép lạ hay ở các nhà hảo tâm vì không có tiền đi bệnh viện. Nghề giáo viên là cao quý nhất trong các nghề. Tuy nhiên, các giáo viên lại được nhận lương bổng thấp nhất so với những người khác làm cho chính phủ. Những cán bộ các cấp cuối năm còn được tiền thưởng, quà thưởng, còn các giáo viên thì thật đáng thương không được xu nào. Phải chăng ĐCSVN lại không nhớ là nhờ các giáo viên giảng dạy, ru ngủ, đầu đọc chủ nghỉa CS cho tuổi trẻ VN, mà ĐCSVN mới được tồn tại đến ngày nay?!

Đường xá giao thông thật nguy hiễm vì xây tạo thiếu chất lượng, cầu cống mới xây thì bị nghiêng, trệ xuống. Không biết chính quyền nhận tiền từ thuế giao thông vận tải ở mổi chiếc gắn máy, vận tải bao nhiêu, mà không trả đủ lương cho cảnh sát giao thông, họ phải “đứng đường” kiếm tiền đút lót từ những người vi phạm luật giao thông. Hàng ngày, khắp mọi nơi đều xãy ra những vụ tai nạn giao thông thảm khốc và chết người như cơm bửa.

Đừng để những tòa nhà cao ốc, cao sang, những chiếc xe gắn máy đẹp bắt mắt, những chiếc phone cầm tay đời mới làm lóa mắt bạn. Vì xen lẩn những cao sang hoa lệ đó, vẫn có rất nhiều người phải buôn thúng bán bưng, bán sức lao động, bán thân xác, bán lý trí để kiếm kế sinh nhai ở cái xã hội đổi mới VN bây giờ. Nhiều em bé vì cha mẹ nghèo không tiền nuôi các em ăn học, các em phải đi đánh bóng giày, bán báo, bán kẹo, bán vé số, ăn xin để có vài ngàn đồng mà tạm nuôi các em, hay nuôi gia đình các em, hay đưa cho những thành phần bất nhân bảo kê, coi giử các em. Nhiều thanh niên nam nữ bỏ quê nhà vào thành phố lớn kiếm sống từ những nghề bình thường cho đến những nghề thật đáng thương như: mát-xa dạo, bán thân xác của mình. Chuyện bán thân xác không còn độc quyền ở phái nữ ở thiên đường XHCNVN nữa. Mà các bạn nam giới cũng làm. Nhiều bạn nam đã phải cặp, ăn ở với những phụ nữ bằng tuổi mẹ mình giàu có, hoặc phải ăn nằm với những người đàn ông có tiền để nuôi thân, nuôi gia đình.


Truớc và sau 1975, ĐCSVN luôn tuyên truyền, chê bai chế độ củ bê tha, rằng con gái VN ham “Tư Bản” lấy Mỹ, lấy ngoại quốc. Nếu chúng ta nhìn lại cái thiên đường XHCNVN ngày nay thì còn tệ hại hơn trước giai đoạn 1975 nhiều. Con gái VN hiện bị bán ra nước ngoài, bị đưa vào các động mãi dâm, bị trưng bày trong lồng kín như những món vật cho người ngoại quốc mua vui. Các cô phải khỏa thân đứng xếp hàng để cho mấy ông “Tư Bản” ngắm, sò mó, lựa chọn. Nhiều cô vì gia đình nghèo phải chịu lấy mấy anh Nam Han, Tàu tàn tật, lớn tuổi bằng cha, chú các cô để hy vọng có một cuộc sống mới. Nhiều em bé tuổi chưa quá lớp 1 bị gạt, bán qua Miên để phục vụ tình dục cho người ngoại quốc. Đó là những vụ được đưa ra ánh sáng. Hiện nay, còn rất nhiều em bé, cô gái VN đáng thương đang là những món vật mua vui ở Miên, Thái Lan, Trung Quốc hay ở chính trên đất nước Việt Nam của họ.


Người dân bị chính quyền địa phương ỷ thế cậy quyền cướp đoạt đất đai, tài sản của họ làm cho họ phải vô gia cư, tài sản mất hết, lâm vào cảnh túng thiếu. Người ta đi khiếu kiện từ Bắc vào Nam, từ Nam ra Bắc, từ đời cha đến đời con, thế mà Công Lý vẩn trốn chạy, tránh né họ. Như những vụ biểu tình của những người dân oan xãy ra ở Sài Gòn, Bạc Liêu, Hà Nội vừa rồi. Họ kêu gào, than khóc, dầm mưa giải nắng, thế mà chính quyền vân mặc kệ họ. Cửa Tiếp Dân vân đóng kín. Công an bao vay họ, không cho người khác cứu trợ lương thực. Không một tờ báo, tin TV nào đặt nặng vấn đề này đến với công chúng. Không những thế, ĐCSVN vô tâm đánh đuổi những người biểu tình khiếu kiện, bắt giam họ.

Hàng năm biết bao nhiêu là cuộc đình công xảy ra trong giới lao động, giai cấp công nhân. Họ bị chủ là “Tư Bản” Nam Hàn, Trung Quốc đánh đập, bạt đãi, trả lương rẻ mạt, thậm chí bắt làm nhiều giờ mà vẩn không trả lương. Trong khi ấy, cái bọn bù nhìn “Công Đoàn” quốc doanh của ĐCSVN thì chẳng làm gì được. Thật trớ truê hơn là bọn lảnh đạo đất nước chính là nhóm người đại diện cho tầng lớp giai cấp công nhân mà chẳng đá động gì được đối với bọn đầu tư ngoại quốc. Ngày qua ngày người lao động vẩn cứ bị bóc lột sức lao động ngay cả trên cái thiên đường XHCN của mình.

CỘNG HÒA XẢ HỘI CHỦ NGHỈA VIỆT NAM
ĐỘC LẬP - TỰ DO - HẠNH PHÚC

Âu chỉ là những mỵ từ quảng cáo cho một ngụy quyền chuyên ngụy tạo, tuyên truyền đánh lừa nhân dân Việt Nam. Nếu chúng ta đem bọn Ngụy Quyền này so sánh với đám gian thương làm nước mắm, nước tương thì đám gian thương nhẹ tội hơn nhiều. Không biết bao giờ đất nước Việt Nam mới thật sự có Độc Lập - Tự Do và Hạnh Phúc vậy bạn?

Vũ Quốc Tấn.

Thử tìm hiểu Chỉ thị 06-CT/TW HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH

Thử tìm hiểu Chỉ thị 06-CT/TW HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
Hay Tư tưởng chánh trị, kinh tế và con người thật Hồ chí Minh

Nguyễn văn Trần

Bộ Chánh trị đảng cộng sản Hà nội vừa ra Chỉ thị số 06-CT/TW về tổ chức cuộc vận động « Học tập và làm theo tấm gương tư tưởng đạo đức hồ chí minh ». Nhơn đây, xin nhắc lại trong vừa qua, Bộ chánh trị đã ban hành một chỉ thị quan trọng, đó là Nghị quyết 36 hướng dẫn đảng viên các cấp thi hành chánh sách của đảng chiêu dụ và thu phục người việt hải ngoại về với đảng cộng sản để được như vậy, đảng cộng sản có thể tổng kết chiến thắng 30/04/75 một cách trọn vẹn. Chỉ thị 06-CT/TW nhằm chấn chỉnh hàng ngũ đảng, củng cố lòng tin nhân dân đối với đảng cộng sản trong vai trò lãnh đạo đất nước ngày nay đang trên đà suy yếu.

Nghị quyết 36 cho thấy chỉ trong thời gian ngắn, đảng cộng sản Hà nội đã không còn giữ thái độ cao ngạo đối với người việt hải ngoại như trước kia ( bọn đĩ điếm, phản quốc, tức thái độ ông/chúng mày ) mà đã thay đổi « người việt hải ngoại là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc » ( quan hệ ông/chúng mày nay đổi lại vị trí ) bởi vì chỉ số tiền 4 tỷ mỹ kim của người việt hải ngoại gởi về Việt nam hàng năm, tính ra thành lợi tức đầu người, cũng đã vượt khởi quá xa lợi tức đầu người ở việt nam ngày nay.

Nay Bộ chánh trị ra Chỉ thị 06-CT/TW không tránh khỏi phơi bày rõ một thực tế khách quan là chủ nghĩa cộng sản không còn là niềm tin, là lý tưởng tranh đấu của người cộng sản nữa. Mà đúng vậy. Cộng sản Mác-Lê sụp đổ trọn vẹn ở Liên-xô và Đông âu bởi vì học thuyết khoa học hiện thực mà lại không có khả năng mở ra tương lai. Sau khi sụp đổ, chủ nghĩa cộng sản cũng không để lại được một điều gì dù nhỏ nhít khả dĩ ơn ích cho nhơn loại. Cộng sản đã sụp đổ như chưa hề có cộng sản hiện hữu.

Đảng cộng sản hà nội không thể không biết sự thật lịch sử này nên nay họ xoay qua cố tạo dựng Hồ Chí Minh thành một giá trị qui chiếu cho đảng viên và thuyết phục nhơn dân chấp nhận như một niềm tin chung. Giá trị qui chiếu, niềm tin chung sẽ là cơ sở tinh thần dựa trên đó đảng cộng sản cố sức kéo dài thêm quá trình xã hội chủ nghĩa của chế độ.

Nhưng « tấm gương tư tưởng đạo đức hồ chí minh » có phải thật sự có giá trị qui chiếu hay không ? Mà Hồ Chí Minh có tư tưởng, đạo đức không ? Con người thật Hồ Chí Minh nếu có nêu gương thì tấm gương ấy là tấm gương như thế nào ?

1-Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh

Từ Đại hội 6 ( 12 - 86 ), đảng cộng sản hà nội đưa ra chánh sách « đổi mới », tức chuyển biến chủ nghĩa mác-lê-mao thành chủ nghĩa- mác-lê-đặng (Đặng Tiểu Bình ), nhưng vẫn khẳng định Việt nam theo con đường xã hội chủ nghĩa, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa, mà chỉ tiếp thu những thành tựu tốt đẹp của chế độ tư bản về khoa học, kỹ nghệ để xây dựng và phát triển đất nước xã hội chủ nghĩa, dứt khoát bác bỏ không khoan nhượng những giá trị tinh thần nền tảng như các quyền tự do chánh trị, văn hóa, tôn giáo, …(1)

Đến năm 1991, Hà nội lại bắt chước Bắc kinh (đề cao Mao trạch đông ) hô hào đề cao cái gọi là « tư tưởng hồ chí minh » và đưa vào tất cả các tài liệu tuyên truyền chánh thức, cả đưa vào sách giáo khoa các cấp .

Thật tình thì Hồ Chí Minh làm gì có tư tưởng ! Những gì Hồ Chí Minh viết chỉ có giá trị không hơn những bản văn hành chánh cho cán bộ của ông. Hơn nữa, chính Hồ Chí Minh cũng từng thú nhận « không có tư tưởng gì khác hơn chủ nghĩa mác-lê ». Sự thú nhận này làm ra vẻ ông là người khiêm tốn, nhưng thật sự không phải ông là người có tánh khiêm tốn. Trong quyển « Lẽ Phãi của chúng ta » do Nhà xuất bản Chánh Trị Quốc Gia, Hà nội, 2004, ông Nguyễn Phú Trọng, chủ tịch Quốc Hội, phản bác nhũng chống đối của người việt tranh đấu dân chủ, viết : « … riêng về mặt lý luận, họ sử dụng mọi phương tiện đánh vào nền tảng tư tưởng của đảng là chủ nghĩa Mác-Lê, ở Việt nam [chủ nghĩa Mác-Lê] còn là tư tưởng hồ chí minh ». Nhưng ở Việt nam, chủ nghĩa Mác-Lê chuyển biến thành tư tưởng mao trạch đông –staline .

Sùng bái tuyệt đối Staline và Mao trạch đông nên đã có lần trong chiến khu, trước một số đông đảng viên, vào đầu thập niên 50, Hồ Chí Minh chỉ ảnh Staline và Mao trạch đông nói :

« Bác có thể sai lầm ; chớ hai vị nầy không bao giờ phạm phải sai lầm ». Do đó, lúc nào Hồ Chí Minh cũng hết lòng hết dạ tôn thờ Staline và Mao Trạch đông là bực thầy của lý thuyết chuyên chính vô sản mà ông ra sức học tập và đem áp dụng ở Việt nam : « đảng cộng sản là công cụ của chuyên chính vô sản », mà chuyên chính sau cùng chỉ còn là « chuyên chính của một người » (2) .

Boris Savourine đã phải nhìn nhận Hồ Chí Minh là đồ đệ tuyệt trần của Staline (3). Còn đối với họ Mao, Hồ Chí Minh khẳng định « kinh nghiệm và tư tưởng của Mao trạch đông đã giúp chúng tôi hiểu thấu đáo hơn học thuyết mác-anghên-lê- staline. Những người cách mạng việt nam phải luôn luôn ghi nhớ và biết ơn Mao trạch đông về những cống hiến to lớn đó »(4) .

Khi ghép « tư tưởng hồ chí minh » vào chánh sách « đổi mới », Hà nội không nghĩ là muốn dựng lên Hồ Chí Minh thay thế Mác-Lê-Staline-Mao để làm cho mọi người thấy có một chút màu sắc việt nam bởi theo tư tưởng hồ chí minh cũng không gì khác hơn rập khuôn theo tư tưởng staline-mao trạch đông mà thôi. Lúc nào Hồ Chí Minh cũng tâm nguyện đó là học thuyết đúng đắn nhứt, là kim chỉ nam xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa. Vì tin tuyệt đối Staline và Mao trạch đông mà Hồ Chí Minh đã đem về Việt nam áp dụng vào thực tế những lời dạy và kinh nghiệm quí báu của hai người ấy, đã gây ra thảm cảnh ở miền Bắc Việt nam từ đầu thập niên 50 của thế kỷ trước trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất long trời lở đất, giết hại hơn nửa triệu nông dân vô tội, làm tê liệt sự sản xuất xã hội suốt trong nhiều năm. Tiếp theo, Hồ Chí Minh thực hiện «Trăm Hoa Đua Nở » giết hại sạch những trí thức ưu tú ở Miền Bắc. Trong số trí thức ấy, có những người thoát chết lúc thanh trừng, phải kéo dài cuộc sống đau khổ cho đến cuối đời trong gần đây.

Trung thành với tinh thần chuyên chính vô sản, lúc kháng chiến, Hồ Chí Minh dựng « Mặt Trận Việt Minh » để thực hiện đoàn kết toàn dân nhưng, thực chất, là để tiêu diệt tất cả đoàn thể, cá nhơn nào tham gia Việt Minh mà không theo cộng sản, mặc dù cùng đánh đuổi thực dân pháp giành độc lập cho Việt nam. Hồ Chí Minh đã từng tuyên bố rõ : « Đảng ta không những giành được quyền lãnh đạo cách mạng ( kháng chiến chống thực dân ) trong cả nước, mà còn đập tan được mọi âm mưu của giai cấp tư sản hầu tranh giành quyền lãnh đạo cách mạng với đảng ta » (5) . Trên thực tế, lúc ấy, từ Hà nội, Hồ Chí Minh đã không ngần ngại ra chỉ thị sát hại những nhà trí thức ái quốc chơn chánh ở Miền nam như Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh, Phan văn Hùm, Trần văn Thạch, Hồ văn Ngà, Nguyễn văn Sâm,…và vô số những tín đồ của các tôn giáo ái quốc trong Nam như Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo (Đức Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ bị Việt minh cộng sản theo lệnh Hồ Chí Minh sát hại ở Đốc Vàng).

Riêng đối với những người kháng chiến theo Đệ Tứ, như Tạ Thu Thâu, Hồ chí Minh đã không tiếc lời nguyền rủa đó là « bầy chó trốt-kít » và buộc tội họ là « bọn phản bội, gián điệp, tay sai ngoại bang, đế quốc,… »(6). Ngày nay, đảng cộng sản hà nội học tập và áp dụng tư tưởng hồ chí minh không lệch lạc trong các vụ buộc tội những nhà tranh đấu dân chủ và nhơn quyền ở Việt nam là « gián điệp, phản quốc, … ». Nhưng khi nhìn lại nghiêm chỉnh thì ai ai cũng nhận thấy Tạ Thu Thâu và tất cả nạn nhơn của Hồ Chí Minh, và cả những người đang tranh đấu dân chủ và nhơn quyền ở Việt nam ngày nay, đều được mọi người lương thiện kính trọng và nhìn nhận họ là những nhà ái quốc trong sáng, chơn chánh . Còn Hồ Chí Minh khó được nhiều người việt nam không cộng sản thừa nhận là người yêu nước.

Năm 1961, dưới thời hồ chí minh, Quốc Hội ở Hà nội ban hành Nghị quyết 49 / NQ / TVQH cho phép công an bắt nhốt mọi công dân vào Trại Cải tạo Tập trung trong 3 năm không cần án lệnh tòa án, không cần xét xử. Sau đó, việc tạm giam có thể được gia hạn đến vô thời hạn. Ngày nay, Võ văn Kiệt chấp hành tư tưởng hồ chí minh, ban hành Nghị Quyết 31 CP cho phép công an quản lý hành chánh tại gia mọi công dân bị tình nghi là thành phần nguy hiểm cho chế độ để tránh cho đảng và Nhà nước phí tổn giam giữ tập trung như trước.

Nhiều đảng viên, tức không kể đến toàn dân lương thiện, đã phải lên tiếng nguyền rủa « tội ác của chế độ này ( do Hồ Chí Minh lập ra ) thật nói không hết » (7) . Còn cựu Đại Tá Bùi Tín, nguyên Phó Tổng biên tập Nhựt báo Nhân Dân, phán xét từ tốn : « Đó là (đảng cộng sản và tư tưởng hồ chí minh ) một Bộ Máy đàn áp rộng lớn và tinh vi theo kiểu KGB lộng hành, bất chấp luật pháp và dư luận, chà đạp quyền tự do của công dân, khống chế con người và xã hội, tạo nên nỗi sợ hãi thường trực và dai dẳng … (8).

2- Tấm gương Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh suốt đời nêu cao tấm gương là người cộng sản chuyên chính, cho đến chết thì tìm đường đi gặp cụ Mác, cụ Lê (Di chúc). Noi gương Mao Trạch đông, ông luôn luôn giữ vững con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt nam. Ông không ngần ngại sao chép một cách máy móc « lý thuyết cách mạng không ngừng ». Ông tin tưởng theo Mao Trạch đông nên quả quyết sau cách mạng dân chủ nhơn dân, tức sau cuộc Cách mạng giành độc lập và Cải Cách Ruộng Đất, Cải Tạo Công Thương Nghiệp, Cải Tạo Trí Thức (vụ Nhân Văn Giai Phẩm), thì Việt nam phải tiến lên làm Cách mạng xã hội chủ nghĩa. Và cả hai cuộc Cách mạng nầy phải quan hệ nhơn quả với nhau và đều do đảng cộng sản lãnh đạo.

Hồ Chí Minh lúc nào cũng nêu cao tấm gương kiên quyết tin tưởng ở sự thắng lợi trên qui mô toàn thế giới của chủ nghĩa xã hội trước chủ nghĩa tư bản.

Vào đầu năm 1960, Trung quốc thực hiện chánh sách « Đại Nhảy Vọt ». Ở Việt nam, Hồ Chí Minh liền noi gương Mao Trạch đông đưa ra khẩu hiệu « tiến nhanh, tiến mạnh, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội ». Năm 1976, sau khi hai miền Nam Bắc thống nhứt theo cộng sản thì đảng cộng sản hà nội áp dụng trung thực tư tưởng hồ chí minh như tấm gương chánh trị qua khẩu hiệu lãnh đạo « tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội ».

Đến năm 1990, Liên-xô và Đông âu sụp đổ làm cho lòng tin sắt đá của Hồ Chí Minh trước kia rằng chủ- nghĩa- xã- hội phải toàn thắng, đã không thắng, mà còn tan tành thành mây khói.

Về kinh tế, Hồ Chí Minh nêu cao tấm gương làm đồ đệ ngoan ngoãn của Mao Trạch đông, thi hành chánh sách Hợp Tác Hóa Nông nghiệp ở Việt nam ngay sau khi nắm được chánh quyền ở Miền Bắc « các Hợp Tác Xã dưới sự lãnh đạo của đảng phải trở thành những đội quân vững mạnh của nông dân lao động, trong cuộc phát triển sản xuất » (9). Dứt khoát, như Trung quốc, Hồ Chí Minh không chấp nhận mọi hình thức « khoán » với nông dân để giữ sản xuất gia đình và cá thể, có khả năng giải quyết nhu cầu lương thực tối thiểu hằng ngày cho người dân, nhứt là nông dân .

Đến cuối đời, Hồ Chí Minh còn nêu cao « tấm gương chết sống » với chủ nghĩa xã hội nên ông kiên định rằng chủ nghĩa xã hội là ngọn đuốc soi đường cho cả nước tiến lên. Ông dạy đảng viên cộng sản của ông « yêu Tổ quốc phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì Việt nam tiến lên chủ nghĩa xã hội thì Tổ quốc ngày một giàu mạnh thêm »(10). Sau khi chiếm được Miền Nam, đảng cộng sản hà nội lập lại lời dạy nầy của Hồ Chí Minh làm khẩu hiệu giáo dục toàn dân « yêu Tổ quốc là yêu chủ nghĩa xã hội ». Và ngày nay, đảng cộng sản vẫn còn giữ « tổ quốc xã hội chủ nghĩa ».

Năm 1959, phát huy tư tưởng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh, trong một báo cáo về dự thảo hiến pháp, khẳng định « chế độ ta xóa bỏ các hình thức sở hữu không xã hội chủ nghĩa » làm cho nền kinh tế nhiều thành phần trước kia trở thành một nền kinh tế thuần nhứt sở hữu toàn dân » để tạo « nền tảng vững chắc cho chủ nghĩa xã hội và đẩy mạnh việc cải tạo xã hội chủ nghĩa » (11).

Không chỉ cải tạo nông nghiệp, Hồ Chí Minh vẫn thực hành lời dạy của Staline và Mao Trạch đông « cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với giai cấp tư sản trong công nghiệp ». Qua năm sau, Hồ Chí Minh hô hào phải làm một việc cần kíp, gấp rút là « cải tạo giai cấp tư sản dân tộc » (12). Nên nhớ từ ngữ « cải tạo xã hội chủ nghĩa » là sản phẩm của Mao truyền dạy .

Người thi hành chánh sách cải tạo công thương nghiệp ở Miền Bắc vào giữa thập niên 50 và sau nầy, ở Sài gòn, là Đỗ Mười. Tưởng nên nói thêm để biết về con người có thành tích lớn nầy. Đỗ Mười xuất thân làm nghề thiến heo và sửa cửa trước khi tiến lên làm Bộ trưởng,Thủ tướng và sau cùng, làm Tổng Bí thơ đảng cộng sản hà nội. Vào thời gian lần lượt đảm nhiệm những chức vụ lãnh đạo đất nước ấy, ông lại mắc bệnh tâm thần . Ban đêm, ông leo lên Cây Bàng hát nghêu ngao và cười nói một mình. Khi đánh tư sản, Đỗ Mười giải thích với cán bộ đảng viên thi hành chiến dịch rằng « bọn tư sản giống như lũ chuột cống ; khi thấy chúng nó lú đầu ở đâu thì phải đập cho nó chết ngay (theo lời kể lại của nhà báo Bùi Tín) .

Thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh tiếp tục theo gương Mao Trạch đông hô hào « để đạt mục đích công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, toàn dân ta phải ra sức thực hiện chánh sách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, nhằm biến nền kinh tế Miền Bắc ( vốn nghèo nàn, cực kỳ lạc hậu, thiếu mọi điều kiện làm công nghiệp nặng ) thành một nền kinh tế hiện đại trong vòng 10 năm » (13) ! Đưa ra quyết định nầy chứng tỏ Hồ Chí Minh không có một hiểu biết tối thiểu về kinh tế và, một cách tổng quát, không có một kiến thức cần thiết tối thỉểu về lãnh đạo, ngoài tài ngoan ngoản vâng lời Mao Trạch đông và Staline .

Cũng như về chánh trị, về kinh tế, Hồ Chí Minh vẫn là tấm gương sáng in bóng Mao Trạch đông. Dưới bút hiệu Trần Lực, Hồ Chí Minh hô hào « Việt nam nên áp dụng hoàn toàn kinh nghiệm xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa của Trung quốc » (14) .

Hậu quả về mặt kinh tế khi Hồ Chí Minh áp dụng rặp khuôn chánh sách cải tạo xã hội chủ nghĩa theo kiểu mao trạch đông đã đưa Việt nam lâm vào tình trạng ngèo đói, lạc hậu cực kỳ thảm hại và còn di hại như một nảo trạng của người cầm quyền ngày nay .

3- Con người Hồ Chí Minh

Cởi bỏ những huyền thoại do bộ máy tuyên truyền hà nội liên tục khoác lên người ông, Hồ Chí Minh sẽ hiện nguyên hình của con người thật, với nhiều tội ác hơn là đạo đức, gian xảo, láu cá, hơn là lương thiện .

Mang tên Nguyễn Ái Quốc, thật sự không phải tên hay xước hiệu của mình nhưng không bao giờ ông chịu đính chánh. Ông còn không ngần ngại lấy những câu nói của các danh nhân làm cho mọi người hiểu như của ông, như « dân chủ là chế độ của dân, do dân, vì dân » ; hoặc « vì lợi ích 10 năm trồng cây, vì lợi ích 100 năm, trồng người ». Sự gian xảo, bất lương nổi cộm của Hồ Chí Minh là lấy tập Thơ Tù làm tác phẩm của mình. Thế mà Hồ Chí Minh được cán bộ đảng viên tuyên truyền ông là người xưa nay khiêm tốn : « Bác không hề nói là của Bác ; chính cán bộ tình cờ phát hiện ra Bác là tác giả ». Người ta tin Hồ Chí Minh đủ can đảm làm việc nầy vì ông đã viết sách chỉ nhằm tự đề cao chính mình dưới bút hiệu Trần Dân Tiên, trong lúc ấy, ông vẫn từ chối khi cán bộ yêu cầu Bác hãy viết hồi ký về đời hoạt động cách mạng của Bác ! Trước sự từ chối của Bác, cán bộ đảng viên không ngớt cất lời ca ngợi Bác luôn luôn là người khiêm tốn !

Về đời tư, ông từng có vợ chánh thức với người phụ nữ tàu Tăng Tuyết Minh, từng sống chung nhiều năm như vợ chồng với Nguyễn thị Minh Khai, lấy Nông thị Xuân có con, … thế mà Hồ Chí Minh vẫn nói được rằng « suốt đòi không vợ con để cống hiến trọn vẹn đời mình cho quốc gia, dân tộc ».

Hồ Chí Minh nếu có lấy vợ, sống bình thường như mọi người và phục vụ đất nước không phải là điều xấu. Hơn thế nữa, Ông có thể có nhiều tình nhân, lấy nhiều người đàn bà không chánh thức, như phần lớn cán bộ cộng sản cao cấp từ trước đến giờ, miễn không lợi dụng chức quyền o ép ai, thì người đời vẫn chấp nhận điều đó một cách bình thường. Nói dối, gian xảo mới là điều xấu, bị người đời khinh bỉ.

Kết luận

Xét tấm gương tư tưởng đạo đức hồ chí minh không gì hơn bằng kiểm điểm lại hành động của Hồ Chí Minh trong suốt thời gian ông lãnh đạo cuộc chiến tranh ở Việt nam, đến khi nắm được chánh quyền ở Miền Bắc, và hậu quả của chánh sách chuyên chính vô sản do ông chọn lựa không suy nghĩ kéo dài cho đến ngày nay trên cả nước.

Nhằm đạt mục tiêu xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh đã sát hại hằng triệu sanh mạng đồng bào một cách oan uổng. Việt nam có nhiều cơ hội tranh thủ được hòa bình không phải bằng chiến tranh khốc liệt kéo dài, nhưng hòa bình ấy sẽ không có chế độ cộng sản toàn trị, nên Hồ Chí Minh đã nhiều lần từ khước. Trong gần đây, 30 – 04 – 1975 đã là cơ hội tốt đẹp để người cộng sản thực hiện hòa giải dân tộc thật sự, tránh thêm cho đồng bào thảm cảnh chết chóc hằng nhiều vạn người, đủ thành phần xã hội, đủ lớp tuổi, trên biển cả, trong rừng sâu, gia đình ly tán, nhà cửa tan nát, xã hội tê liệt, …Người cộng sản đã không làm mà quyết tâm trả thù giai cấp, không xem đó là đồng bào, cũng chỉ vì trung thành noi theo tấm gương « chuyên chính vô sản hồ chí minh », thực hiện tư tưởng hồ chí minh .

Làm theo « tấm gương tư tưởng hồ chí minh » trong việc xây dựng đất nước là một thất bại hiển nhiên . Việt nam vẫn tụt hậu, và ngày nay, vẫn hoàn toàn không phải là một chề độ «của dân, do dân, vì dân ».

Nhận xét tổng kết, sự nghiệp của Hồ Chí Minh là « nhốt cả dân tộc vào cái rọ chuyên chính vô sản về mặt chánh trị, và đem lại nghèo đói, lạc hậu, nhân tâm ly tán, xã hội băng hoại, đạo lý suy đồi, về mặt kinh tế xã hội » (15).

Đó là tấm gương trung thực hồ chí minh !

Ai có thể nhìn thấy ở Hồ Chí Minh một tấm gương khác hơn để học tập và làm theo, nhưng xin đừng nhái lại những luận điệu tuyên truyền dối trá của đảng cộng sản còn lưu hành ở Việt nam ngày nay chỉ nhằm thần thánh hóa Hồ Chí Minh ?.

Ôi ! Giấc mơ chỉ của một nhóm người mà đã biến thành cơn ác mộng của cả một dân tộc !



Nguyễn văn Trần



Ghi chú :

(1) Võ Nhơn Trí, Việt nam cần đổi mới thật sự, Đông Á, Vancouver, Canada, 2003

(2) Nguyễn Minh Cần, đảng cộng sản việt nam qua những biến động trong Phong trào cộng sản quốc tế, Huê kỳ, 2001)

(3) Pierre Brocheux, Ho Chi Minh, Paris, 2000

(4) Võ Nhơn Trí, Việt nam cần đổi mới thật sự, Đông Á, Vancouver, Canada, 2003

(5) Hồ Chí Minh, Toàn Tập, X, Hà nội

(6) Hồ Chí Minh, sđd

(7) Nguyễn văn Trấn, Viết cho Mẹ và Quê Hương, Văn Nghệ, Huê kỳ, 1991

(8) Bùi Tín, Mặt Thật, Huê kỳ, 1993

(9) Hồ Chí Minh, Toàn Tập, II, Hà nội

(10 ) Võ Nguyên Giáp, Tư tưỏng hồ chí minh và con đường cách mạng việt nam, Hà 2000

(11 ) Hồ Chí Minh Tuyển Tập, Hà nội, 1980

(12 ) Hồ Chí Minh Tuyển Tập, sđd

(13 ) Vô Nhơn Trí, trich dẩn trong Việt nam cần đổi mới thật sự, sđd

(14 ) Trần Lực, Mấy kinh nghiệm trung quốc mà chúng ta cần học, Hà nội, 1952

(15 ) Lữ Phương, Thế Kỷ 21, Huê kỳ, 2001

mardi 7 août 2007

Hội Luận Về Hồ Chí Minh - phần 16

Hội Luận Về Hồ Chí Minh - Tên Việt Gian Số 1 Của Lịch Sử Việt Nam - phần 16

Đảng Cộng Sản Xiêm: Nước Mắm Việt Nam Dán Nhãn Hiệu Thái Lan!




Hồ Chí Minh - hình chụp lúc chập chững bước vào con đường làm Việt gian cho đế quốc Liên Xô.
Văn Kiện Đảng Tòan Tập bạch hóa và hệ thống hóa đỉnh cao Việt gian của đảng cộng sản



















Tài liệu của UNESCO cho thấy Việt gian cộng sản "đề nghị"
UNESCO vinh danh Việt gian Hồ Chí Minh là danh nhân văn hóa chứ không
phải UNESCO tự ý vinh danh Việt Gian Hồ.
Phần 16 hội luận về Hồ Chí Minh nói về về việc Hồ thi hành lệnh của Quốc Tế Cộng Sản để đến Thái Lan, Mã Lai nhằm thành lập đảng cộng sản Thái và Mã Lai. Hồ tảo tần ngược xuôi từ Nam chí bắc Thái và Mã Lai không phải vì cách mạng Việt Nam mà vì quyền lợi của Liên Xô giao phó trong sự nghiệp bành trướng ảnh hưởng chủ nghĩa cộng sản vào vùng Đông Nam Á. Dĩ nhiên, Hồ luôn luôn lãnh lương của QTCS để thi hành công tác này. Tại sao chúng ta lại gọi đang cộng sản Xiêm là nước mắm Việt Nam dán nhãn hiệu Thái Lan? Hòang Văn Hoan đã kể lại việc thành lập đảng cộng sản Xiêm ra sao? Phản ứng của cán bộ cộng sản Việt Nam như thế nào khi bị Hồ kêu vào gia nhập đảng cộng sản Thái? Hãy đọc kỹ những đọan mà Hòang Văn Hoan kể lại việc thành lập đảng cộng sản Xiêm để thấy rõ bản chất tay sai và Việt gian của Hồ Chí Minh khi cặm cụi thực thi tất cả các nghị quyết và đường lối chính sách của đại hội Quốc Tế Cộng Sản lần thứ 6.
Ngòai ra chúng tôi cũng xin cám ơn anh John Nguyễn - một bạn đọc của VietnamExodus đã cung cấp cho chúng tôi tài liệu của Unesco nói về cái gọi là "danh nhân văn hóa" Hồ Chí Minh. Đọc kỹ tài liệu này chúng ta thấy rất rõ là đảng cộng sản Việt gian đề nghị với Unesco để vinh danh Việt gian Hồ Chí Minh chứ không phải Unesco quyết định độc lập trong việc vinh danh Hồ!!!! Đọc kỹ thêm se thấy Pháp và Ấn Độ cũng đề nghị vinh danh người của họ.
Trước sự phản đối của cộng đồng ngừoi Việt hải ngọai, Unesco đã hủy bỏ đề nghị của cộng sản Việt gian (thành viên chính thức của UNESCO) vinh dang Hồ Việt gian. Đây là một chiến thắng quan trọng và rất lớn của cộng đồng người Việt Hải ngọai. UNESCO đã không nghe theo thành viên chính thức của họ là Việt gian cộng sản mà nghe theo cộng đồng người Việt hải ngọai. Tài liệu này đã lật mặt nạ bản chất gian trá của bộ máy tuyên truyền của Việt gian cộng sản trong việc rêu rao rằng UNESCO vinh danh Việt gian Hồ!!!!. Xin quý bạn đọc theo dõi buổi hội luận.

Đọan 1

Tốc Độ 56K Modem
Lấy Xuống Máy Nghe
Xin bấm vào đây để nghe
Xin bấm vào đây để lấy xuống máy nghe

Đọan 2

Tốc Độ 56K Modem
Lấy Xuống Máy Nghe
Xin bấm vào đây để nghe
Xin bấm vào đây để lấy xuống máy nghe

Đọan 3

Tốc Độ 56K Modem
Lấy Xuống Máy Nghe
Xin bấm vào đây để nghe
Xin bấm vào đây để lấy xuống máy nghe

Đọan 4

Tốc Độ 56K Modem
Lấy Xuống Máy Nghe
Xin bấm vào đây để nghe
Xin bấm vào đây để lấy xuống máy nghe

Đọan 5

Tốc Độ 56K Modem
Lấy Xuống Máy Nghe
Xin bấm vào đây để nghe
Xin bấm vào đây để lấy xuống máy nghe

Đọan 6

Tốc Độ 56K Modem
Lấy Xuống Máy Nghe
Xin bấm vào đây để nghe
Xin bấm vào đây để lấy xuống máy nghe
Đọan 7
Tốc Độ 56K Modem
Lấy Xuống Máy Nghe
Xin bấm vào đây để nghe
Xin bấm vào đây để lấy xuống máy nghe

Đọan 8

Tốc Độ 56K Modem
Lấy Xuống Máy Nghe
Xin bấm vào đây để nghe
Xin bấm vào đây để lấy xuống máy nghe

Xin quý bạn đọc bấm vào đây để đọc tài liệu của UNESCO. (chú ý ở trang 17 của tài liệu viết rất rõ chính quyền Việt gian cộng sản đề nghị vinh danh Việt gian Hồ Chí Minh)

http://www.vietnamexodus.org/vne/modules.php?name=News&file=article&sid=2263

http://www.esnips.com/
http://www.esnips.com/ key: unesco