jeudi 14 juin 2007

Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh ở VN (15-16)

Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh ở Việt Nam
Việt Thường

Bài 15.

Nếu điểm lại kỹ càng những việc Hồ đã làm, từ khi hắn lấy cái tên Nga là Line, trở thành mật vụ cho Nga-xô, cho đến ngày hắn chết, thì mới thấy cái lưu manh của Hồ trong nội dung di chúc của hắn.

Hồ soạn mấy cái di chúc để đệ tử tiện sử dụng tùy thời lúc hắn chết. Nhưng tựu trung vẫn chỉ là căn dặn đệ tử:

1. Phải coi việc bảo vệ mẫu quốc là trọng tâm hoạt động của toàn tổ chức mafia đỏ Việt Nam

Cái nội dung của nhiệm vụ trung tâm nói trên có nghĩa là phải tiếp tục thực hiện chiến lược bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ, tức xâm lược bằng được miền Nam Việt Nam, Lào và Căm-bốt. Sau nữa, có thể mở rộng ra cả vùng Đông-nam-á. Muốn thế, về đối nội phải tiếp tục chuyên chính, nghĩa là dùng bạo lực cưỡng bức toàn dân theo lệnh của tụi chóp bu của tổ chức mafia đỏ Việt Nam. Phải hoàn thiện chủ nghĩa xã hội, nghĩa là phải tiếp tục vô sản hóa toàn dân, biến toàn dân thành nô lệ kiểu mới, thành tài sản của tổ chức mafia đỏ. Có thế mới có điều kiện thực thi nhiệm vụ bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ.

Cái mà Hồ nói đến là “chủ nghĩa quốc tế vô sản” là thứ màu mè che đậy nội dung của “chủ nghĩa thực dân đỏ”. ở Paris, có nhà luật học đã cố tình quay lưng với thực tế, làm trò xiếc tung hứng chữ nghĩa để viết rằng “Hồ là phe quốc tế”, còn những Nguyễn Thái Học, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu v.v… là “phe dân tộc”!!!

Tổ tiên ta đã dạy: “Đừng buôn chung với Đức Ông”. Cho nên nước lớn thì dùng cái mặt nạ “chủ nghĩa quốc tế” để che bộ mặt thật là thực dân. Còn mấy tên làm chính trị của nước nhỏ thì đeo mặt nạ “chủ nghĩa quốc tế” để che đậy bộ mặt Việt gian, dựa vào nước lớn để giữ vững quyền lợi cá nhân và phe nhóm mà thôi.

Cuộc chiến tranh họ Hồ phát động ở hai miền Bắc và Nam Việt Nam có lợi cho ai, thật rõ ràng. Còn nhân dân và đất nước Việt Nam bị mất đủ mọi thứ, cả tinh thần, cả vật chất.

Bè lũ Lê Duẩn đi tiếp con đường phản dân hại nước của Hồ, càng dìm nhân dân và đất nước Việt Nam vào đầm lầy, ngõ cụt. Gây chiến sang Căm-bốt, chiến tranh với Trung cộng, và để Nga-xô hưởng không cảng Cam-ranh chẳng tốn một xu và các mỏ dầu hỏa ở biển Đông thì liên doanh theo kiểu “chủ ăn thịt, chó gặm xương”!

Rồi khi “mẫu quốc đỏ” ngủm củ tỏi, bọn đệ tử của Hồ lại tiếp tục cái sự nghiệp “quốc tế vô sản” của Hồ, quay lại với “anh hai Trung cộng” xin sự che chở bằng dâng đất và biển, hệt như Hồ đã làm trước đây.

2. Bảo vệ sự đoàn kết trong tổ chức mafia đỏ

Khi còn sống, Hồ tạo ra hai băng Lê Duẩn và băng Trường Chinh kình chống nhau, nhằm mục đích không băng nào dám phản lại Hồ. Nhưng khi sắp chết, Hồ biết bọn chúng chỉ chờ Hồ nằm xuống là làm thịt nhau, nên Hồ mới căn dặn bọn chúng phải “đoàn kết” nghĩa là phải biết san sẻ quyền lợi, nhân nhượng để giữ vững quyền lợi “mẫu quốc đỏ” và quyền lợi của chính tổ chức mafia đỏ Hồ chí Minh. Kẻ phát biểu cái ý đó của Hồ chính là Tố Hữu, viết bài thơ ngay sau khi Hồ chết với đại ý rằng: “Nay cha mất rồi, anh em nên cùng nhau chia việc gánh vác”!

Đấy là một lối đãi bôi đểu giả của Hồ với băng Trường Chinh, vì hắn thừa biết là băng Lê Duẩn sẽ thắng thế. Nhưng, mục đích chính của Hồ là để hậu thế vẫn thấy hắn là còn người luôn vì nghĩa lớn, luôn luôn đi theo con đường “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết!!!”

3. Tha thuế cho nông dân

Từ cuối năm 1954, do hiệp định Genève về Việt Nam, Hồ đã nắm được quyền cai trị từ vĩ tuyến 17 trở ra Bắc Việt Nam. Hắn nắm quyền cai trị suốt 15 năm trời, chưa bao giờ hắn mở mỏ nói đến giảm thuế, giảm sưu cho dân. Mỗi phong trào hắn phát động là lại đem đến chém, giết, tù đày, đói khổ cho người dân Bắc Việt Nam, đặc biệt là nông dân. Ngay không phải thời gian giáp vụ thì cả miền Bắc Việt Nam đã phải trường kỳ ăn độn; ở nông thôn nhiều nơi chết đói nhưng tuyệt nhiên báo, đài không được đưa tin. Mọi tội lỗi của Hồ và tổ chức mafia đỏ của hắn gây ra cho nhân miền Bắc Việt Nam đều đổ cho “Mỹ-Ngụy”. Và, lũ bút nô ra công bịa các chuyện đói khổ ở miền Nam Việt Nam, để xoa dịu lòng dân. Nào là trong miền Nam, đàn bà con gái phải làm điếm kiếm ăn; gạo thiếu đến mức nhà buôn phải trộn hạt ny-lông vào gạo. Ngay lính Mỹ cũng bị “đói” đến mức phải cưỡi trực thăng đi cướp gạo của nông dân. (những điều này “hư thực ra sao” chắc Lữ Phương không thể chối là không biết!)

Cơ quan khoa học của Hồ được lệnh khuyến khích nhân dân ăn các thứ bá láp, nhưng lại chứng minh ra vẻ rất khoa học. Nào là ốc sên có nhiều đạm; ăn 7kg lá khoai mì cũng bổ tương đương bằng 1kg thịt bò; thịt cóc, nhái đều có nhiều đạm; rồi phổ biến làm “thủy sâm”; me-xừ Lý Ban, bí thư đảng đoàn bộ ngoại thương (thời kỳ Phan Anh làm bộ trưởng và Nguyễn văn Đào làm thứ trưởng), cũng là phái viên của Trung cộng trong trung ương mafia đỏ Việt Nam, thì ra công phổ biến cách nhịn ăn, sáng sớm uống độ 2 lít nước âm ấm. Me-xừ bác sỹ Nguyễn khắc Viện, tuy việc chính là “bịp” quốc tế về tình hình miền Bắc Việt Nam, có máu cơ hội nên hưởng ứng bằng bài báo nghiên cứu về “rau muống” đăng trên tờ Văn Hóa. Rồi nào là ngô bổ hơn gạo v.v… Và ngụy quyền Hồ chí Minh khuyến khích ăn thai nhi và nhau đàn bà đẻ. Và, chuột cống thành phố cũng được coi là nguồn thịt ngon lành.

Biết bao người ngộ độc vì ăn ốc sên, thịt cóc, thịt chuột, có nơi chết cả gia đình. Còn môn thuốc chữa đói của me-xừ Lý Ban cũng làm nhiều người trương bụng lên mà chết.

Những việc đó Hồ đều biết. Ngay cả ở chợ Đồng-xuân (Hà-nội), Hồ cũng hóa trang (nhà nghề gián điệp mà) giả làm một người già có bệnh ra mua tem thịt tiêu chuẩn 150gr một tháng, bị con bé mậu dịch viên bán thịt vứt cho cục xương và nói: “Không có thịt, ăn tạm cục xương này, không thì thôi!” Câu chuyện đó được nối dài thêm vào những “huyền thoại về Hồ”. Còn từ con bé mậu dịch bán thịt, cho đến cửa hàng thịt, ban quản lý chợ v.v… chẳng ai việc gì!!!

Cho nên trước khi chết, Hồ để di chúc mong nông dân được tha thuế lại chỉ là trò tự đánh bóng cố hữu của Hoà, trút cái khó khăn lại cho đệ tử. Nếu chúng “tha thuế” thì đó cũng là lệnh của Hồ; nếu “không tha thuế” thì dân oán chúng mà vẫn ơn Hồ và tiếc vì Hồ đã chết nên “cán bộ” làm sai tâm nguyện của Hồ. Đòn ma giáo này của Hồ còn nhằm phối hợp với ý thứ tư trong di chúc của hắn.

4. Đừng làm ma to, cho Hồ, lãng phí của dân

Một số bồi bút cung đình, một số cây viết người nước ngoài thuộc loại “dễ tính, vô trách nhiệm khi cầm bút” và “óc ít nếp nhăn” cứ tô vẽ thêm vào cho Hồ là giản dị, tiết kiệm v.v… để “huyền thoại về Hồ” càng thêm nhiều điều phét lác.

Trong lịch sử Việt Nam, trải dài hơn 4000 năm, chưa có kẻ nào lãng phí máu xương, tài nguyên của Việt Nam như tên Việt gian Hồ chí Minh. Lê long Đỉnh bất quá giết mấy ông sư. Gióc mía lên đầu cũng chỉ dăm ba người, cho hổ ăn thịt cũng độ chục mạng. Trần thủ Độ có chôn sống cũng chưa đến 100 người thân tộc, sủng thần của nhà Lý. Ngay Gia Long, Minh Mạng cũng giết dân khá nhiều, nhưng cũng chỉ tới số ngàn.

Còn Hồ, chỉ riêng số thanh niên cùng gia đình và bạn bè quen biết của họ, bị Hồ bán cho mật thám Tây năm 1929 cũng đã ở con số hàng ngàn. Báo cáo của Hà huy Tập gửi quốc tế 3 đề ngày 20-4-1935 viết:

“Trước và sau đại hội của đảng, một số đồng chí khi nói chuyện với nhau thường bàn về đồng chí Quốc (tức Hồ). Họ cho rằng Quốc chịu trách nhiệm về việc mật thám bắt hơn một trăm hội viên đoàn thanh niên, bởi vì:

a) Quốc biết rõ Lâm đức Thụ là một tên khiêu khích nhưng vẫn làm việc với hắn.

b) Quốc đã phạm sai lầm khi yêu cầu mỗi thanh niên nộp hai bức ảnh, ghi rõ tên thật, địa chỉ, tên cha mẹ, ông bà, cụ kỵ cùng với tên của từ 2 đến 10 người bạn.

c) ở trong nước, ở Xiêm (Thái-lan) và ở trong tù, người ta vẫn còn bàn tán đến trách nhiệm của Quốc, trách nhiệm mà anh ta không dám chối.”

Năm 1945, Hồ còn cho lệnh ám sát những người đối lập, các đảng phái không cộng sản, kể cả nhóm troskít, cho đến tín đồ và chức sắc các giáo phái cũng vài chục ngàn. Rồi cải cách ruộng đất của miền Bắc Việt Nam cũng ở con số ngót nghét một triệu, chưa kể các trò ma quái khác, kể cả việc xâm lăng miền Nam Việt Nam!

Khi còn sống, Hồ đã chứng kiến bao sự lãng phí trong các ngày lễ, nào in ảnh màu (trước khi hoàn thành nhà máy in Tiến bộ) ở nước ngoài; nào ảnh dệt của Hồ; tượng lớn tượng nhỏ của Hồ cũng như các thứ huy hiệu mang hình Hồ v.v… cùng với sự lãng phí của các đệ tử của Hồ, có bao giờ thấy hắn trừng phạt ai đâu. Hắn chỉ nêu chung chung lấy cớ siết chặt mọi nhu cầu thiết yếu của dân mà thôi, như ủng hộ “miền Nam”, “anh Trổi chị Quyên” để rồi lính ngụy và thanh niên xung phong tiết kiệm mặc quần áo cũ, trả lại quân phục mới; công nhân thì làm thêm giờ, không đi phép năm; nông dân “xin” đóng thuế vượt mức v.v… và tự túc mỗi năm 3 tháng lương thực đi “lao động nghĩa vụ” (tức làm sưu); công nhân, xã viên hợp tác xã, cán bộ, nhân viên trong các nhà máy, cơ quan cũng phải gánh thêm phần việc của nhau để mỗi năm 3 tháng đi “lao động nông nghiệp”!

Cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam càng ác liệt thì Hồ càng thẳng tay trấn lột nhân dân tàn bạo hơn. Nhà dân bị rỡ làm cầu, làm đường không bồi thường. Các nghĩa trang bị san bằng lấy cớ làm trận địa phòng không. Học sinh mẫu giáo phải đóng tiền “làm hầm” trú ẩn, mà lạ nỗi là hầm cũ còn đó mà cứ mỗi năm hoặc nửa năm lại đóng mới lại. Nhưng, tàn bạo vô lương tâm nhất là Hồ cho tổ chức đám cưới các thương bệnh binh nặng với các nữ thanh niên, nhằm trút gánh nặng toàn bộ cho người phụ nữ nông dân. Vì thế mà xảy ra biết bao vụ vợ giết chồng hoặc tự tử để “thoát nợ đời”.

Tất cả sự lãng phí của Hồ và tập đoàn cộng sản Việt gian của hắn đã đẩy số phận đa số phụ nữ miền Bắc thành điếm! Muốn vào làm việc ư; muốn được vào biên chế ư; muốn được nhập hộ khẩu ư; muốn được lên lương ư; muốn được đi học hay đi lao động ở nước ngoài ư; muốn vào đại học ư, và v.v…, hàng trăm thứ muốn. Người phụ nữ chỉ cần chấp nhận (nhiều khi không chấp nhận cũng không thể được) mang hiến cái phao câu của mình cho cấp có thẩm quyền (cán bộ tổ chức, cấp ủy mafia đỏ, công an hộ tịch, giám đốc, chủ nhiệm, bộ trưởng, thứ trưởng v.v…). Đâu có phụ nữ là cũng có tình trạng đó, có thể nói là 100%. Vì từ trên Hồ đến Lê Duẩn, Phạm văn Đồng, Võ nguyên Giáp, Văn tiến Dũng, Hoàng văn Hoan, Trần quốc Hoàn, Tố Hữu, Nguyễn văn Trân, Ung văn Khiêm, Nguyễn Côn, Hoàng Tùng, Trần danh Tuyên, Nguyễn đình Thi, Bảo định Giang, Lưu trọng Lư, Nguyễn tư Thoan, Vũ Đại, Vũ Quang, Nguyễn trọng Vĩnh, Hồng xích Tâm v.v… cho đến cấp cơ sở như tên Phán (đồng hương của Phạm văn Đồng) chỉ là cửa hàng trưởng cửa hàng văn phòng phẩm Tràng Tiền (Hà-nội) mà có 42 nữ nhân viên thì hắn đã “gặm phao câu” của tới 40 nàng kiều!!!

Chuyện hiến thân cho cấp trên phổ biến đến mức, trung tá ngụy quân Hà minh Tuân, nhà văn kiêm giám đốc Nhà xuất bản Văn học phải viết cuốn “Vào đời” để kêu gọi dư luận xã hội. Nhưng kết quả ngụy quyền Hồ chí Minh chẳng những không sửa sai mà còn cất chức và cất bút của nhà văn Hà minh Tuân và bọn chúng cố tình cho tên của ông ta vào lãng quên. Những Nguyễn Khải, Lê Lựu v.v… có thời là đàn em của Hà minh Tuân, nhưng có ai dám nhớ đến nhà văn dũng cảm đó!!!

Ngay cái ngụy quyền mafia đỏ, của Nông đức Mạnh bây giờ, vẫn còn những gương mặt tự hiến phao câu nên đã nhẹ nhõm leo nhanh trên bậc thang quan lại đỏ, như Cù thị Hậu, Nguyễn thị Hằng, Võ thị Thắng, Nguyễn thị Bình (phó chủ tịch nước), Trương thị Mỹ Hoa (phó chủ tịch quốc hội) v.v…!!!

Cù thị Hậu xuất thân từ thợ dệt ở nhà máy dệt Nam-định. Để trở thành chiến sỹ thi đua, đã phải “chiều lòng” từ cấp ủy nhà máy đến tỉnh, rồi cả “phóng viên thường trú của Việt Nam thông tấn xã cho đến ban thi đua bộ công nghiệp nhẹ, ban thư ký tổng công đoàn”. Vì thế mà trở thành đại biểu “cuốc hội”, mỗi lần đi họp thì chủ yếu chờ mua hàng đặc biệt do thương nghiệp phục vụ “cuốc hội”. Đến mức, chính Hồ còn toe toét cười hỏi: “Các cô chú ở thương nghiệp có chuẩn bị nhiều hàng cho đại biểu yên tâm họp không?” Mỗi lần như thế, bác sỹ Trần duy Hưng lại nhanh nhẩu đứng lên hô: “Hồ chủ tịch muôn năm!” Cả hội trường hô theo ầm ĩ khen: “Bác tâm lý thật”!

Đúng vậy, do nghề gián điệp, chỉ điểm nên Hồ rất “tâm lý”. Trong di chúc thì dặn đệ tử tha thuế, dặn đừng làm ma to cỗ lớn, đúng là giản dị thật. Nhưng sự thực là hắn đã nghĩ đến cái “mả” của hắn từ trước 1960.

Khi theo lệnh Hồ, Trường Chinh ký lệnh tập trung cải tạo tất cả những người Hồ cho là không thích hợp cho chế độ thực dân đỏ của Hồ, vào ngày 20-6-1961, thì thực tế đa số đã bị bắt giam từ 1960, cùng lúc với “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh”. Cục lao cải của bộ công an (sau này gọi là cục quản lý trại giam) là đơn vị cục vụ duy nhất có chỉ huy trưởng là cấp tướng: thiếu tướng Lê hữu Qua (ngay vụ tổ chức cũng chỉ là đại tá Hoàng Thao; chánh văn phòng là đại tá Hồng Hà; viện trưởng viện khoa học công an là đại tá Mai văn Mạc). Cái “cục lao cải” quan trọng đến mức phải do cấp tướng chỉ huy vì nó có một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng mà Hồ giao cho Trần quốc Hoàn. Đó là xây hồ Suối Hai ở Ba-vì, là nơi, theo thầy địa lý, có miếng đất đế vương, nhưng phải cải lại một chút vì xưa kia đã bị ba Tàu yểm (hình như thời Cao Biền đô hộ). Cho đủ bộ vì, phải có Hồ Suối Hai để thăng bằng với đỉnh núi Tản. Hồ đích thân lén chôn những chiếc răng của hắn, gọi là có cốt, ở mảnh đất “phát vương” đó. Nhưng hắn “đa nghi” nên chơi trò “năm ăn, năm thua”. Nghĩa là, ngộ nhỡ mảnh đất đó không phát thì nếu chôn cả cái thây của hắn ở đó, có thể có kẻ phá (hắn biết có lắm kẻ thù là nhân dân); còn chôn răng không thôi cũng sợ có thể phát mà cũng có thể không. Vì thế hắn muốn có cái lăng nằm chình ình giữa thủ đô, để chí ít thì cũng như Lê-nin, và cũng sẽ hy vọng là “vinh quang” mãi mãi!

Trong lúc đang chiến tranh, nhân dân còn đói khổ mà lại ghi vào di chúc là xây lăng thì chỉ có kẻ ngu! Hồ chưa bao giờ làm việc gì mà không “thủ đoạn, ma giáo”. Cho nên hắn lại diễn lại vở kịch cũ. Đó là những ngày đầu (sau cuộc chiến bùng nổ ra ngày 19-12-1946) chạy lên Việt-Bắc, Hồ không chịu được mùi thuốc rê, vì hắn chỉ quen hút ngày vài bao thuốc lá thơm Craven A, là thứ chỉ có thể mua được ở Hà-nội, là nơi quân Pháp tạm thời quản lý. Cho nên hễ “vào cuộc họp là Hồ ra công ho”. Và, theo đề nghị của Phạm văn Đồng, “trung ương mafia đỏ” (lúc đó còn chưa công khai) gồm Trường Chinh, Phạm văn Đồng, Võ nguyên Giáp, Hoàng quốc Việt, Nguyễn Khang, họp và ra nghị quyết bắt buộc Hồ phải hút thuốc thơm Craven A để khỏi ho. Và, tất nhiên Hồ tôn trọng và chấp hành ý “trung ương”. (Điếm thật!!!). Người được giao trách nhiệm lo cung cấp thuốc lá thơm cho Hồ hút, nghĩa là phải cử người lén vào Hà-nội mua, là Trần dụ Châu, bèn được Hồ cho cái lon đại tá ngụy quân, phụ trách quân nhu.

Lợi dụng việc đó, Trần dụ Châu đã dùng tiền của Chính phủ Liên hiệp đa đảng, lãng phí vô tội vạ. Thị trấn Thanh-cù (Phú-thọ) là nơi ăn uống xa hoa của thuở đó, chủ yếu là nhân viên dưới quyền Trần dụ Châu. Và, hang ổ của hắn ở Ao-châu (huyện Ấm-thượng, Phú Thọ) thì tiệc tùng thâu đêm. Chính đại biểu quốc hội khóa 1 là giáo sư Đoàn Phú Tứ, đã chứng kiến các vụ việc đó, giáo sư viết thư “hạch tội” họ Hồ. Thế là Hồ cho lệnh tử hình Trần dụ Châu ngay. Hồ đi quả bất ngờ này nên Trần dụ Châu chưa kịp khai báo gì nhiều, và chuyện đến đó là hết, không lôi theo các vụ việc khác như vụ Phạm văn Đồng cưỡng ép một “cháu” học sinh ở miền Nam ra, chẳng hạn. Hồ bèn đặt vào cái ghế chủ nhiệm quân nhu một nhân vật do bề tôi thân cận và trung thành của Hồ là Nguyễn lương Bằng (tức Sao Đỏ hay anh Cả Đỏ) giới thiệu. Đó là Trần đăng Ninh, được đeo lon thiếu tướng và được là ủy viên trung ương chính thức của mafia đỏ từ đại hội 2 (1951). Ngoài việc cung cấp thuốc lá thơm cho Hồ, Trần đăng Ninh còn là kẻ kiếm gái người dân tộc thiểu số cho Hồ chơi. Nạn nhân Nông thị Xuân chính là do Trần đăng Ninh lựa chọn và “làm công tác tư tưởng” trước khi tiến cung!

Việc làm công tâm của đại biểu Quốc hội khóa 1 là Đoàn Phú Tứ càng khiến Hồ nóng lòng ra tay “tiêu diệt âm thầm” Chính phủ Liên hiệp đa đảng và Quốc hội như đã trình bày ở những phần trên.

Cho nên trong di chúc để công khai với toàn dân và quốc tế thì Hồ đóng trò “thanh liêm”, nhưng bên trong Hồ cho khẩu lệnh khác, vì thế mới có sự nhất trí của chính trị bộ mafia đỏ là xây lăng, ướp xác cho Hồ, dám làm trái di chúc của Hồ khi thây Hồ còn chưa kịp lạnh và đã sẵn sàng đội ngũ chuyên gia ướp xác Nga-xô từ ngàn dặm kịp thời có mặt!

Thật là mọi chuyện rõ như ban ngày. Có mù như sẩm thì cũng sờ bằng tay hay nghe bằng tai được!

Cái lăng của Hồ là một “tội ác tàn bạo” nữa của Hồ và tập đoàn cộng sản Việt gian của hắn giáng lên đầu nhân dân Việt Nam. Không kể tiền bạc, tài vật, mà nó là kết tinh của bao khối máu dân, bao giọt nước mắt của những người có chồng con chết trong khi chuyên chở gỗ, đá để xây lăng cho hắn, nếu có hứng chắc cũng nhiều như nước ở thác Bản Giốc mà thằng con hoang của Hồ là Nông đức Mạnh vừa dâng cho ba Tàu bành trướng bá quyền.

Hãy thử nghĩ xem, những năm đó, chiến tranh do Hồ phát động xâm lược miền Nam Việt Nam, đang ở thời kỳ ác liệt cả trên không, trên bộ và sông biển. Vậy mà gỗ là lấy từ rừng núi Tây nguyên chở ra Hà-nội. Tìm gỗ và lấy gỗ cũng phải bao nhiêu mạng người. Rồi lại qua đường gọi là “đường mòn Hồ chí Minh”, cứ mười phần thì tới Hà-nội chưa được một. Số còn lại cùng những đơn vị chuyên chở, gỗ và máu xương quyện lại với nhau và mãi mãi nằm lại trên đường đi! Còn đá xây lăng là do mẫu quốc Nga-xô ban cho, lấy từ vùng Caucase, chở bằng tàu biển đến phao “0” ở Hải-phòng. Từ đó, công binh ngụy quân cộng sản phải chở ngầm bằng phao vào vì cảng Hải-phòng bị bỏ mìn phong tỏa. Biết bao nhiêu con người Việt Nam nữa lại chết vì chuyên chở đá.

Xã hội Việt Nam trải qua bao triều đại, cũng có nhiều hôn quân, cũng có nhiều giai đoạn bị cai trị bởi tụi xâm lược phương Bắc (tức ba Tàu), và cho đến thực dân Pháp nữa, chưa bao giờ máu xương nhân dân Việt Nam lại bị sử dụng một cách tàn bạo và vô ích như thế. Các vua chúa ngày xưa cũng chẳng bao giờ khi còn sống bắt dân thờ sống trong từng nhà. Và, có xây lăng cũng chẳng bao giờ xây lúc đang có chiến tranh. Cũng chẳng bao giờ xây chình ình giữa lòng thủ đô như họ Hồ. Đã thế, sau khi lăng được hoàn thành, bọn đầu lãnh mafia đỏ còn ra lệnh đưa chỉ tiêu cho các địa phương, cơ quan, trường học v.v… theo kế hoạch điều động dân luân phiên đưa nhau viếng lăng, đảm bảo lúc nào cũng đông người viếng đều đặn. Biết bao lãng phí về công lao động, xăng dầu, xe cộ để phục vụ cho sự điên loạn tàn bạo của họ Hồ và tập đoàn Việt gian mafia đỏ của hắn.

Rồi bây giờ, họ Nông lên cầm quyền, hắn làm lễ dâng hương cho con yêu tinh râu xanh, cha đẻ của hắn là họ Hồ, cùng lúc dâng hương cho cả Trần Phú và Hà huy Tập, cố tình làm nhòa đi những báo cáo của Trần Phú và Hà huy Tập đã méc với quốc tế 3 các thứ tội của cha hắn. Đồng thời, Phan văn Khải ra nghị quyết về “lễ hội”. Có nghĩa là tập đoàn đầu nậu mafia đỏ chuẩn bị dựa vào “truyền thống dân tộc” để tiến dẫn những tên cộng sản Việt gian ác ôn, có nợ máu với nhân Việt Nam, vào chiếc ghế “thành hoàng” ở các làng xã!!!

Ngày cái lăng họ Hồ “khai trương”, chỉ có “lãnh đạo” các cơ quan, đoàn thể đi xem trước, có một số phóng viên các báo, đài cũng được đi. Ấy thế mà chẳng biết canh gác ra sao để đến nỗi một bài thơ châm biếm đã dán ở gốc cây, nội dung như sau:

“Cũng lăng, cũng lính, cũng kèn đồng
Xác ướp da xương, tim óc không
Nằm quan tài kính cho người ngắm
Xác nhắm mắt nghiền chẳng dám trông
Sở thú kề gần dăm bảy bước
Thú người, người thú nực cười không!!!”

Ai làm thơ, ai dán, chắc cho đến nay bọn mafia đỏ vẫn chưa điều tra ra. Nhưng, rút kinh nghiệm “quả hớ” đó, kể từ ngày “khánh thành chính thức” cho đến về sau, nội quy bắt gửi lại đồ, người đi viếng phải tự kiểm soát nhau, không được tách ra đi một mình và v.v… Đến lúc ấy thì tự cái xác của Hồ, dù chỉ còn da; tim, gan, óc, phèo, phổi (không biết cái tạo ra Nông đức Mạnh còn không) đều bị moi ra hết, thế mà vẫn bị “thối”. Cái mũi chó săn của Hồ bị lỗ chỗ, phải đắp sáp. Và “nghe nói” cái xác của Hồ, thứ thiệt thì ngâm thuốc dưới hầm, còn cái trưng ở trong quan tài là bằng sáp nặn mà thôi.

Quả là họ Hồ, khi sống, lúc chết đều là giả dối hết!!!

Còn một câu hỏi nữa, đó là ngày chết của Hồ. Đầu tiên là 3-9-1969. Sau do “tiết lộ” của Vũ Kỳ rằng ngày đó là sai, do nhóm Lê Duẩn, Lê đức Thọ tự ý thay đổi, chứ Hồ chết vào đúng 2-9-1969! Và, thế là tụi mafia đỏ Việt Nam cho đổi lại ngày chết của Hồ cho đúng với tiết lộ của me-xừ Vũ Kỳ, gia nô tin cẩn của Hồ!

Chuyện vô lý đến thế mà cũng có nhiều người tin. Cả cái gọi là di chúc của Hồ với bút tích của hắn hẳn hoi mà bọn Duẩn, Chinh, Đồng, Thọ v.v… còn làm ngược lại như đừng “ma to cỗ lớn, lãng phí” thì chúng còn “lãng phí không chỉ tiền của trong xây lăng, mà cả xương máu”. Mỗi đời “tổng bí thư” lại bổ sung thêm những “chi tiêu lãng phí” cho cái lăng đó. Như bây giờ là thành lập bộ tư lệnh bảo vệ lăng; tổ chức chào cờ trước lăng hằng ngày v.v… “Tha thuế” vẫn là chuyện “hứa lèo”. Nếu có thi hành chút chút thì như bài tây ba lá, rút chỗ này, chập chỗ kia, nghĩa là tăng thêm các khoản đóng góp đủ loại nghĩa vụ! Đời Hồ đã bán đất, bán biển cho ba Tàu (các thư do Ung văn Khiêm, rồi đến Phạm văn Đồng gửi cho ba Tàu còn đó); đời con là Nông đức Mạnh lại còn tặng đất, tặng biển cho ba Tàu bạo hơn. Thế mà nay chỉ vì tên gia nô mà răm rắp sửa sai cái việc chẳng có chút gì quan trọng. Vì, đến ngày sinh của Hồ cũng toàn là “rổm” cả. Sao không sửa lại đi?

Vậy tại sao lại sửa ngày chết của Hồ?

Trước khi trả lời câu này, xin lưu ý bạn đọc rằng tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh ra lệnh “xóa bỏ mê tín dị đoan”, là xóa đối với nhân dân thôi, còn bọn chúng thì làm ngược lại. Từ Hồ trở xuống, từ Tố Hữu trở lên, thằng nào cũng rất tin vào tướng số, địa lý, tử vi.

Hoàng văn Hoan căm thù nhà văn Vũ Trọng Phụng đến mức dựa vào vụ “nhân văn – giai phẩm”, ra “khẩu lệnh” bắt hủy bỏ và cấm in, phổ biến mọi tác phẩm của Vũ Trọng Phụng. Có hai nguyên nhân để Vũ Trọng Phụng bị “căm thù”, mặc dầu ông đã chết từ 1940, mà theo lời nhà thơ trào phúng Tú Mỡ, khi bịnh nằm ở khu an dưỡng đã “tâm sự” với người viết rằng:

1- Thấy Vũ Trọng Phụng nổi tiếng nên Trường Chinh móc nối muốn đưa Vũ Trọng Phụng gia nhập “cộng sản”, nhưng Vũ Trọng Phụng từ chối, lại còn nói, đại ý: “Bọn các anh chỉ mượn danh cách mạng để làm tiền những người yêu nước, dùng vào những việc đen tối!”

2- Trong tác phẩm “Giông tố”, lão già “cách mạng” kiêm thầy địa lý mà Vũ Trọng Phụng mô tả chính là mượn hình ảnh ngoài đời của Hoàng văn Hoan vậy.

Đỗ Mười từng bị điên phải sang Trung cộng chữa chạy, có thằng con trai cũng “điên điên, khùng khùng”. Một giáo sư sử học cũng có tiếng tăm, chuyên nghiên cứu tử vi, có dịp xem tử vi cho Đỗ Mười từ khi Mười còn là phó thủ tướng ngụy quyền Hà-nội, đã phán rằng Đỗ Mười sẽ phát đến bậc đầu lãnh số một của tập đoàn mafia đỏ. Và, khi mới ở ngôi vị thứ 2, sau Nguyễn văn Linh, thì Đỗ Mười đã “mời” viên giáo sư sử học đó làm cố vấn chìm. Qua Đỗ Mười, viên giáo sư sử học có điều kiện “cố vấn tử vi” cho hầu hết tụi đầu nậu mafia đỏ, kể cả gia đình nhà anh em Lê đức Thọ. Còn Trường Chinh thì “cả họ” nhà hắn, cả gái cả trai đều say mê tử vi.

Chính nhân vật “cố vấn tử vi” đó đã trình bày rằng ngày giờ Hồ chết không ổn, hãy bỏ ngày thật 3-9 đi mà đổi thành ngày 2-9-1969 thì hay hơn. Và, nếu không tin ở ngày giờ xấu, tốt thì cũng nên thấy cái việc không hay là ngày hôm trước thì kỷ niệm “dựng nước” (tức quốc khánh), ngày hôm sau đã “đại tang”! Chi bằng cho chung vào một ngày vừa kỷ niệm “dựng nước” vừa “nhớ” người “có công dựng nước”. Cả bọn đầu lãnh mafia đỏ đã ủng hộ ý kiến đó, nên mới có cái vụ “tiết lộ” của me-xừ Vũ Kỳ.

Câu chuyện trên do chính giáo sư Từ Chi kể lại, tên của viên “cố vấn tử vi” sẽ được nêu ra vào lúc thích hợp.

Nhiều người đã được giáo sư Từ Chi kể chuyện này. Nhưng có điều kỳ lạ là có người biết như vậy nhưng vẫn a dua và cổ võ mọi người, cùng a dua tấn công nhóm Lê Duẩn, Lê đức Thọ, cố tình bỏ qua những phi lý rành rành “như canh nấu hẹ”.

Ở đây không phải là sự vô tình, mà “người ta cố ý hư cấu” các sự việc, diễn dịch các sự kiện thật, giả lẫn lộn. Vì sao vậy?

Vì tất cả đều biết rằng Hồ và cái thây ma của hắn là chỗ sinh tử của tổ chức Việt gian mafia đỏ. Nếu đánh vào đó, nghĩa là tập trung công sức vạch bộ mặt thật của họ Hồ ra thì tổ chức Việt gian mafia đỏ sẽ tan vỡ ra từng mảnh.

Chính vì thế, những kẻ có liên quan đến họ Hồ có thể hạ bệ nhau bằng mọi thủ đoạn, nhưng lại nhất trí với nhau bảo vệ và đề cao họ Hồ, như kiểu giữ cái nhãn đã được quốc tế và trong nước cầu chứng. Bọn họ ít nhiều đều đã có cổ phần trong cái công ty Hồ chí Minh, cũng vì quyền lợi cá nhân (hoặc nhóm) nên giả mù không dám phanh phui chuyện kinh doanh đĩ điếm, bài bạc, ma túy của cái công ty đó. Họ không ngu nhưng họ không trung thực và không là kẻ sỹ như nhiều người lầm tưởng.

Cho nên nếu chúng ta không tỉnh táo, vừa cổ võ họ vừa nuốt những lập luận đề cao họ Hồ của họ, có nghĩa là chúng ta chỉ chống vài tên “đang cầm quyền”, chứ không phải là chống toàn bộ tổ chức Việt gian và hệ lụy của nó.

Chẳng cần ai chống thì Trường Chinh cũng thay Lê Duẩn, rồi Nguyễn văn Linh lại thay Trường Chinh; Đỗ Mười thay Nguyễn văn Linh; Lê khả Phiêu thay Đỗ Mười và mới đây Nông đức Mạnh lại thay Lê khả Phiêu.

Cứ xét những bài viết mạnh bạo của cây bút “chống đối” xuất sắc là ông Trần Khuê thì thấy y như cái “đèn kéo quân”. Vừa mới đề cao Đỗ Mười thì đã quay ra khen Lê khả Phiêu, và rồi lại tin ở sự “ôn hòa” của Nông đức Mạnh. Sau Nông đức Mạnh sẽ đến ai đây? Vì cả ba thằng Mười, Phiêu, Mạnh đều vừa cấu kết bán đất, bán biển cho ba Tàu cộng! Bọn chúng có bán đất, bán biển thì cũng chỉ là đi theo cái việc họ Hồ đã làm từ thập niên 50 mà thôi!

Cho nên đấu tranh cho dân chủ là phải đấu tranh chống từ nguồn gốc sinh ra độc tài mất dân chủ.

Cái nguồn gốc đó là chính cá nhân họ Hồ; là sự lựa chọn đường lối chính trị của họ Hồ; là tổ chức Việt gian mafia đỏ của Hồ, mang cái tên “đảng cộng sản Việt Nam” và cái ngụy quyền “cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Bỏ quên Hồ (chứ chưa nói đến đề cao Hồ) mà chỉ tấn công Lê Duẩn hoặc Mười, Phiêu, Mạnh thì chẳng khác gì giặc Minh xưa kia giết Lê Lai để thoát Lê Lợi vậy.

Lê Duẩn, Lê đức Thọ chỉ là những mục tiêu giả hoặc thứ yếu. Nếu thần tượng Hồ chí Minh của tập đoàn mafia đỏ đổ thì sẽ lôi theo không chỉ Duẩn, Thọ v.v… mà sẽ làm sụp đổ toàn bộ hệ thống tổ chức – cả vật chất cả tinh thần – của tập đoàn Việt gian mafia đỏ, ngụy quyền Hà-nội hiện nay.

Chỉ có như vậy mới thực hiện được sự đoàn kết trong các tầng lớp nhân dân Việt Nam, cả trong và ngoài nước, để xây dựng dân chủ và bảo vệ nhân quyền nhằm xây dựng một xã hội tự do, hạnh phúc, phồn vinh, trên cơ sở đó gìn giữ và thu hồi đất đai, sông biển của Việt Nam mà tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh đã dâng cho thế lực bành trướng bá quyền nước lớn, là Trung cộng.

Nhân dân Việt Nam nói chung, nông dân Việt Nam nói riêng phải thấy được rằng Hồ chí Minh là tội phạm đầu sỏ, tội phạm chính yếu, đã lèo lái cái tổ chức “cộng sản Việt gian” của hắn để đầy ải người dân Việt Nam trong thân nô lệ, trong kiếp nghèo đói và cũng Hồ là kẻ duy nhất trong lịch sử Việt Nam đã mang đất đai, sông biển của Việt Nam dâng cho ba Tàu. Tất cả nhân sự trong tổ chức “cộng sản Việt gian” đều do Hồ đích thân lựa chọn, đề bạt, giao trách nhiệm thi hành các chính sách phản dân, hại nước của hắn.

Thí dụ: Năm 1958, Phạm văn Đồng nhân danh thủ tướng ngụy quyền Hồ chí Minh gửi cho Chu ân Lai (thủ tướng Trung cộng) ủng hộ và công nhận việc Trung cộng chiếm các quần đảo Hoàng-sa và Trường-sa, là thừa lệnh ai?



Bài 16

Nên nhớ rằng cái năm 1958 đó, Hồ là chủ tịch đảng mafia đỏ, kiêm chủ tịch nước, kiêm chủ tịch hội đồng quốc phòng. Còn Lê Duẩn mới chỉ là bí thư thứ nhất do Hồ tạm chỉ định để giúp việc cho Hồ. Phải đến tận năm 1960, tại đại hội 3 mafia đỏ, Lê Duẩn mới được thực thụ là bí thư thứ nhất, chứ không phải như hầu hết những người “ly khai” hay “chống đối” nâng Lê Duẩn lên là “tổng bí thư”, để có thể thuyết phục người đọc về vị trí quan trọng uy thế của Duẩn cho phù hợp với cốt truyện “hư cấu” rằng Lê Duẩn khống chế Hồ.

Cũng năm 1958 đó, me-xừ Lê đức Thọ vẫn chỉ là ủy viên trung ương mafia đỏ mà thôi. Phải đến đại hội 3 mafia đỏ (1960), Thọ mới được vào chính trị bộ. Có thể tra cứu lại báo Nhân dân những năm đó để biết danh xưng của Duẩn, Thọ cũng như của Hồ và Đồng xem “hư thực ra sao”!

Với cương vị như thế (vừa là ủy viên chính trị bộ kiêm thủ tướng ngụy quyền) thử hỏi Phạm văn Đồng tuân lệnh Hồ hay tuân lệnh Duẩn và Thọ?(!!!)

Việc đề cao Hồ và bịa chuyện Hồ bị cho ra rìa có mục đích đen tối rõ ràng nhằm bao che:

1- Hồ vô tội trong cuộc vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam (căn cứ nghị quyết 15 (khóa 2 mafia đỏ) tháng 1-1959).

2- Hồ vô tội trong việc dâng Hoàng-sa và Trường-sa cho Trung cộng (sự việc xảy ra vào năm 1958).

Hơn nửa thế kỷ qua, đa số nhân dân Việt Nam nói chung, nông dân Việt Nam nói riêng, bị “liên quan” với cái tổ chức “cộng sản Việt gian” của Hồ không kiểu này thì kiểu nọ; không ít thì nhiều (nhất là phía Bắc Việt Nam), dây mơ rễ muống, nên y hệt như cảnh cái u ở người “để thì buồn cắt thì đau”. Chính vì biết chỗ yếu – cái gót chân Achille – đó của người dân, nên tụi đầu nậu mafria đỏ cố tình khai thác tận cùng sự mơ hồ của người dân về con người thật của Hồ và hắn mới là tội phạm chủ chốt, để đặt ra những “huyền thoại về Hồ” nhằm níu kéo người dân không đủ sáng suốt và bình tĩnh đoạn tuyệt với quá khứ, cắt bỏ mọi liên quan với Hồ và tổ chức cộng sản Việt gian của hắn.

Cho nên cần khẳng định rằng bất kỳ ngòi bút nào dựng ra huyền thoại về Hồ đều có tội đồng lõa, bao che cho tập đoàn cộng sản Việt Nam mà tên đầu sỏ là Hồ chí Minh.

Thử giả dụ như tin thời sự hiện nay, nếu có những ngòi bút nào đó phê phán không khoan nhượng những tên khủng bố Al-Qaida ở New York vừa qua, mà lại dựng ra “huyền thoại về Bin-Laden” rằng hắn “bị cho ra rìa”, hắn không biết gì cả thì chúng ta sẽ nghĩ sao về những ngòi bút đó?

Căn cốt Việt gian bán nước của Hồ có hệ thống từ trẻ đến chết. Cụ thể, tóm tắt như sau:

- Trước khi Hồ xuất ngoại, thế hệ của Hồ có biết bao thanh niên dấn thân cho việc nước. Nhưng Hồ tuyệt nhiên không tham gia một phong trào nào. Hắn chỉ ngoan ngoãn theo cha vào Huế, học ở Quốc-học Huế cho đến khi cha hắn bị cách quan vì giết dân lành vô tội thì hắn bị đuổi học. Thế là hắn vừa lần hồi kiếm sống vừa tìm đường vào Nam hy vọng qua Pháp học ở trường thuộc địa;

- Chân ướt chân ráo tới Pháp là Hồ vội làm đơn xin học ở trường thuộc địa để phục vụ “mẫu quốc Pháp”;

- Khi thấy quốc tế 3 chủ trương giúp các nước thuộc địa, thế là hắn theo luôn, bỏ ngoài tai những lời khuyên của các bậc tiền bối đã cưu mang, dạy bảo, nâng đỡ hắn là các cụ Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền;

- Được Nga-xô thu nhận, đưa về Đông-nam-á hoạt động, Hồ liền bán cụ Phan Bội Châu cho mật thám Pháp, lấy tiền xài sang và để tổ chức “hội Việt gian” phục vụ cho mẫu quốc đỏ Nga-xô;

- Hồ bán đứng cuộc khởi nghĩa của cụ Nguyễn Thái Học cho mật thám Pháp;

- Hồ bán các thanh niên yêu nước tìm đường ra nước ngoài lập tổ chức để chống Pháp, kể cả bán gia đình, thân nhân và bạn bè của họ. (Báo cáo của Hà huy Tập gửi quốc tế 3, ngày 20-4-1935);

- Khi tiếm được quyền lãnh đạo của cái gọi là “đảng cộng sản Đông-dương”, Hồ đã thanh lọc, giết những người gia nhập “cộng sản” xuất phát từ lòng yêu nước nhưng còn nhận xét ấu trĩ về sự lựa chọn đường lối chính trị, để biến cái tổ chức “cộng sản” đó hoàn toàn thành một tổ chức Việt gian, công cụ bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ;

- Hồ đã đề ra đường lối và tổ chức thực hiện những âm mưu đảo chính Chính phủ Liên hiệp, vô hiệu tiến tới thủ tiêu Quốc hội khoá 1 và xé bỏ hiến pháp 1946;

- Hồ đã hoạch định đường lối, bố trí nhân sự để thực thi cái gọi là: “Trí, phú, địa, hào. Đào tận gốc, trốc tận rễ”.

Nhằm tiêu diệt những cá nhân, những tổ chức yêu nước của nhân dân Việt Nam. Lũng đoạn và làm thoái hóa các hội đoàn tôn giáo. Giết hàng chục ngàn các chức sắc và các tín đồ tôn giáo. Cướp bóc tài sản không chỉ của dân mà của cả các hội đoàn tôn giáo. Phá bỏ truyền thống tốt đẹp của Việt Nam, phá bỏ bản sắc Việt Nam, giết các sắc dân thiểu số. Tất cả nhằm bần cùng hóa toàn dân, biến toàn dân thành nô lệ kiểu mới, chà đạp nhân quyền, nhục mạ nhân phẩm của người dân. Hỗn láo và coi thường các anh hùng dân tộc và danh nhân văn hóa Việt Nam. Bán rẻ xương máu, tài nguyên, đất đai, sông biển của Việt Nam cho ngoại bang nhằm xây dựng chủ nghĩa thực dân đỏ ở Việt Nam (núp dưới mỹ tự CNXH), thực hiện chiến lược bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ Nga-xô;

- Giáo dục và đào tạo những thế hệ Việt Nam chỉ biết phá hoại, hận thù, đố kỵ, sống bất nhân, bất nghĩa, bỉ ổi không bằng dã thú;

- Hồ là nguyên nhân gây ra cuộc tỵ nạn khổng lồ năm 1954; hơn một triệu người miền Bắc Việt Nam trong tổng số 16 triệu đã ồ ạt bỏ mồ mả tổ tiên từ bao đời, nhà cửa, ruộng vườn v.v… để chạy vào Nam. Nếu không có các khó khăn do vận chuyển, do khủng bố của Hồ thì số chạy nạn sẽ còn nhiều gấp bội;

- Cũng do Hồ phát động vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam, khiến cho cả hai miền Nam và Bắc Việt Nam hao phí tài nguyên, nhân lực, máu xương; đất nước và nhân dân Việt Nam là nơi thí nghiệm vũ khí, là nơi các siêu cường Nga, Mỹ, Tàu mà cả mua bán trên máu xương, đau khổ, tang tóc của Việt Nam; ba thế hệ Việt Nam không biết đến hạnh phúc; lãng phí thời gian dùng vào chiến tranh phá hoại. Tất cả chỉ vì Hồ trung thành thực thi chiến lược toàn cầu của mẫu quốc đỏ;

- Cũng vì Hồ mưu đồ vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam, thực thi lịch trình bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ nên đã phải dâng đất dâng biển cho Trung cộng, khơi dậy lòng tham bá quyền bành trướng có từ ngàn năm của giặc phương Bắc, nay là Trung cộng. Đó là mẫu mực cho bè lũ Lê đức Anh, Đỗ Mười, Võ văn Kiệt, Trần đức Lương, Lê khả Phiêu, Nông đức Mạnh, Phan văn Khải, Nguyễn văn An và tập đoàn Việt gian cộng sản, ngụy quyền Hà-nội hiện nay noi theo;

- Cũng từ Hồ mà sự kỳ thị Bắc-Nam xuất hiện và phát triển không ngừng, gây hậu quả tiêu cực trên mọi bình diện văn hóa, kinh tế, xã hội của Việt Nam. Và, cũng lần đầu tiên lịch sử Việt Nam phải chứng kiến cảnh liều mạng ra đi của nhiều triệu người Việt Nam để tỵ nạn cộng sản mà chí ít cũng gần nửa triệu người phải bỏ mình dưới biển Đông. Và, Việt Nam cho đến năm 2002 này vẫn áp chót trên thế giới, điển hình về nghèo đói, tội phạm, đĩ điếm, không tự do, không hạnh phúc và nhân phẩm bị chà đạp bởi một thể chế chính trị độc tài, công an trị mà lịch sử Việt Nam chưa bao giờ xuất hiện và tồn tại cho đến khi có Hồ và cái tập đoàn Việt gian cộng sản của hắn;

- Cũng từ Hồ là kẻ hủy bộ tư pháp, bỏ khoa luật; cai trị bằng sắc lệnh, bằng lệnh miệng; bằng đàn áp khủng bố, phân chia đẳng cấp v.v… cho nên đã đẻ ra, phát triển thành bản chất chế độ là nạn cửa quyền, tham nhũng, ô dù, vô liêm sỉ, vụ lợi vị kỷ, lãng phí cả tài nguyên, con người, trí tuệ và v.v…

Chính lúc Hồ cầm quyền, chưa ai được biết chi, thu như thế nào. Tiền của nhân dân đã chi cho “đảng Việt gian” của Hồ như thế nào. Nghĩa là người dân đúng là “nô lệ”, chỉ biết lao động sản xuất hay chém giết theo sự điều động của Hồ và tập đoàn Việt gian cộng sản của hắn. Mọi sự chi, thu v.v…, nghĩa là việc chung của đất nước hoàn toàn không được biết và cũng không cho phép được biết!!!

Nhân sự được Hồ lựa chọn, sử dụng đều là lũ lưu manh, khát máu, đầu hàng, trộm cướp, đĩ điếm với một quá khứ không rõ ràng. Trọn vẹn bọn chúng là lủ lừa thầy phản bạn, bội tín, bất nhân bất nghĩa, vô luân như tạm điểm mặt một số bọn chúng đã nêu ở những phần trên.

Cho nên, sau ngày Hồ chết, người Hà-nội của đầu thập niên 70, được nghe một bài “thơ ghế đá” có tựa đề:

Đảng lợn dê
Lê Duẩn ba vợ, ba nhà
Mỗi người riêng ở một tòa khang trang
Vợ cả già xấu, tính ngang
Vợ ba trẻ đẹp, hai đàng ghen nhau
Vợ cả dứt tóc, đập đầu
Vợ ba gào khóc, hạt châu tràn trề
Người này gớm, kẻ kia ghê
Làm cho Lê Duẩn não nề xót xa
Nghĩ mình phương diện quốc gia
Chuyện này không khéo lọt ra bên ngoài
Còn gì uy tín của ngài
Trước dân khoe mẽ đức tài vẹn đôi
Luật hôn nhân để đâu rồi
Chồng một vợ một cho người thôi ư
Xét trong đảng của họ Trư
Trai thì thừa vợ, gái dư nhân tình,
Thọ, Đồng hai vợ đình huỳnh
Giáp, Dũng nhân tình nhân ngãi lăng nhăng
Xuân Thủy hết Bình lại Hằng
Trần Độ Thị Định nhập nhằng với nhau
Vợ Liêm rước Côn cổng sau
Bách lấy vợ trẻ bỏ mau vợ già
Trân chơi Gia Tường cả nhà
Lần con lần mẹ chẳng tha người nào
Danh Tuyên dê cụ làm sao
Gọi nhân viên vào hiếp giữa buya-rô
Đến như “đạo đức” họ Hồ
Thế mà hắn cũng dăm cô nhân tình
Cẩn, Thập, Mỹ nên hiển vinh
Cũng vì được hắn làm tình nhiều phen
Dê theo đường cũ đã quen
Từ trên xuống dưới lèm nhèm như nhau
Nói thì đạo đức cao sâu
Làm thì ra lũ đầu trâu mặt người
Nói thì cách mạng đổi đời
Làm thì đói khổ gấp mười thực dân!
Chết còn ướp xác, xây lăng
Lễ nghi bày đặt trăm phần xa hoa
Các vua phong kiến thua xa
Đổi đời “cách mạng” hóa là chủ nô
Lòi đuôi đầy tớ Nga-xô
Buôn xương, bán máu giặc Hồ gian manh
Tượng, bia rồi cũng tan tành
Miệng dân mới thực sử xanh ngàn đời
Lăng xây, xác ướp lỗi thời
Ngàn năm còn để cho đời cười chê
Đúng là đảng lũ lợn dê!!!

Tập đoàn Việt gian cộng sản và ngụy quyền mafia đỏ Hà-nội hiện nay đang bị tấn công tới tấp cả ở trong và ngoài nước. Cộng đồng người Việt ở hải ngoại, cho dù bị “phê bình” là chia rẽ, nhưng vẫn là lực lượng trụ cột làm lay động chế độ mafia đỏ hiện nay ở Việt Nam.

Chính là nhờ cộng đồng người Việt ở hải ngoại mà những nhân vật như Nguyễn chí Thiện, bác sỹ Nguyễn đan Quế, Đoàn viết Hoạt, Dương thu Hương, Bùi minh Quốc, Bảo Ninh, Vũ thư Hiên, Bùi ngọc Tấn, Nguyễn hguy Thiệp, Hòa thượng Thích quảng Độ, Cụ Lê quang Liêm, Cha Nguyễn văn Lý, cựu tướng cộng sản Trần Độ, đại tá cộng sản Phạm quế Dương, phó tiến sỹ Nguyễn xuân Tụ tức Hà sỹ Phu, tiến sỹ Nguyễn thanh Giang, đồng bào ở Tây Nguyên, nông dân đấu tranh ở Đồng-nai, Thái-bình, Đông-anh (Hà-nội) và v.v... mới được quốc tế biết đến”. Sự phẫn nộ của cộng đồng người Việt ở hải ngoại (nhất là ở Mỹ) đã khiến tập đoàn khát máu ngụy quyền mafia đỏ Hà-nội phải “uyển chuyển” không dám hiện nguyên hình sói lang. Nếu không, những nhân vật nêu trên đã bị “nấu lẩu”.

Đã có cuộc sống tự do, ổn định, nhưng cộng đồng người Việt vẫn bỏ “tiền túi”, bỏ công sức đấu tranh chống tập đoàn Việt gian cộng sản tiếm quyền hiện nay ở Việt Nam thì phải khẳng định đây là một cộng đồng yêu nước nồng nàn không vì thời gian mà phai nhạt, không vì no đủ mà ngại khó ngại khổ bỏ quên đồng bào bên quốc nội.

Bản thân tụi đầu nậu mafia đỏ Hà-nội cũng biết cộng đồng người Việt ở hải ngoại là chỗ dựa tin cậy của các cá nhân và tổ chức trong nước đã và đang đấu tranh đòi mọi quyền tự do, quyền làm người, cho nên chúng đẻ ra mọi tổ chức, mọi chính sách, âm mưu gây chia rẽ trong cộng đồng, gây tranh luận những chuyện trời ơi đất hỡi đánh lạc hướng đấu tranh hiện nay của cộng đồng người Việt. Chúng dùng “tiền, quyền, hư danh” mua chuộc những cây bút cơ hội, những văn nghệ sỹ “óc đất gan muỗi” để thăm dò, để thử, để làm lẫn lộn thực giả. Khi thì “trộn” lẫn nhạc sỹ người Việt tự do với tụi trí nô cung đình mafia đỏ; khi thì cho ra những băng video ca nhạc nửa úp nửa mở với nội dung cứ như bồi bút mafia đỏ biên soạn; khi thì thương khóc, kỷ niệm thổi ống đu đủ, nâng những tên mafia đỏ nằm vùng như Trịnh công Sơn thành “thiên tài”; rồi tranh luận nào là “quên quá khứ hướng về tương lai; rồi lần lượt “vinh danh” tất cả trí nô, bồi bút của mafia đoû, không phân tích, mơ mơ hồ hồ đánh đồng loạt. Vụ “Trần Trường” chúng đưa ra để thăm dò phản ứng đã bị nếm mùi thất bại, nên tập đoàn Việt gian mafia đỏ ma giáo hơn, chúng cho một lũ giả tỉnh giả mê, làm như Khuất Nguyên hay Lý Bạch bên Tàu để làm loãng tinh thần, nội dung đấu tranh của cộng đồng người Việt ở hải ngoại.

Những nhà lãnh đạo của cộng đồng người Việt đã bền bỉ kiên trì gần 30 năm đấu tranh; sức mạnh của khối “thầm lặng” đã bộc lộ rõ ràng trong vụ “Trần Trường” đã đem lại an toàn và sự thoát ra ẩn số cho hầu hết những người đấu tranh với mafia đỏ. Nhưng cũng cần dựa vào thực tế đã diễn ra để thấy không phải bất cứ ai bị mafia đỏ trù ép, tù đày đều đáng được ủng hộ mà không phân biệt. Có kẻ “bán của giả” cũng được đón nhận, đề cao để được uy tín “tầm cỡ quốc tế”. Có kẻ dựng ra chuyện bom Mỹ ném làm chết ba trăm ngàn người dân ở Bến-tre!(?) Nghĩa là gấp trăm lần mafia đỏ Hồ chí Minh giết dân Huế năm 1968!!! ở bên Anh lại có chuyện kỷ niệm ngày các Thánh tử vì đạo thì chọn ngày 2-9 và trên tờ Mục Vụ, hai dấu “nặng” được thay bằng hai “ngôi sao năm cánh”??? Có kẻ được thoát tù, được tặng khen của quốc tế, quay lại “từ chối lá cờ vàng ba sọc đỏ”. Thậm chí có kẻ tu hành, tay cầm hộ chiếu “cờ đỏ sao vàng” mà sang tới Mỹ, đến với cộng đồng người Việt nhưng không chịu nhận lá cờ Vàng ba sọc đỏ của quốc gia Việt Nam. Tôn giáo nào bắt buộc được đứng dưới lá cờ này mà không được đứng dưới lá cờ kia? Loại “sư sãi mộc tồn” như vậy thì có họa là “tu hú” tiền dành cho loại “sư sãi mộc tồn” đó, dùng giúp các thương phế binh của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa còn kẹt lại ở Việt Nam hoặc đồng bào ở An-truyền hay Nguyệt-biểu còn hơn rất nhiều, và có ý nghĩa quan trọng và thiết thực trong lúc này.

Gần 30 năm đã qua đi, cộng đồng người Việt ở hải ngoại rõ ràng đã thể hiện tấm lòng sắt son, bền bỉ vì dân vì nước. Hoàn toàn là “cơm nhà việc nước” nhưng đã chứng tỏ sức mạnh có khả năng trấn áp sự man rợ của tập đoàn mafia đỏ Hồ chí Minh, ngụy quyền cộng sản Hà-nội hiện nay.

Sức mạnh của cộng đồng sẽ được giải phóng hoàn toàn nếu bọn nằm vùng bị vạch mặt chỉ tên, bị tẩy chay (như trong vụ Trẩn Trường); bọn cơ hội đi hai hàng bị lật tẩy. Chỉ có “diệt xong phá hoại nội bộ” thì mới có thể kiến tạo được sự đoàn kết trong cộng đồng, sức mạnh cứu nước sẽ được nhân lên gấp ngàn vạn lần, đóng vai trò quan trọng cùng nhân dân cả nước giành lại quyền làm chủ đất nước Việt Nam, giành lại trọn vẹn đất đai, sông biển của Việt Nam.

Xét về mặt nào cũng vậy, tụi thương khóc tên nằm vùng Trịnh công Sơn, tổ chức vinh danh hắn, còn tệ hại hơn vụ “Trần Trường” và thách đố cũng hỗn xược hơn Trần Trường đối với cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản. Những cá nhân, tổ chức trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại có kiến thức về luật pháp cũng nên xét xem những kẻ làm đơn xin tỵ nạn cộng sản nay lại vinh danh gia nô của cộng sản công khai như vậy thì là tỵ nạn thiệt hay thâm nhập nằm vùng, có thể đề nghị truy tố về tội khai man để được cư trú hợp pháp rồi hoạt động từng mức độ cho cộng sản hay không. Làm được việc này mặc nhiên sẽ loại được bọn nằm vùng làm trong sạch hàng ngũ người Việt ờ hải ngoại để trở thành chỗ dựa vững chắc, tiếng nói chính nghĩa của mọi hình thái đấu tranh tại quốc nội, chống tập đoàn mafia đỏ tiếm quyền ở Việt Nam hiện nay.

Tội ác diệt chủng, bán nước của tập đoàn Việt gian cộng sản từ họ Hồ đến nay là Nông đức Mạnh đã rành rành. Cho nên không thể ỷ y vào “tự do” ở thế giới phương Tây để ca ngợi, vinh danh, hà hơi tiếp sức dù bằng kinh tế, hay kỹ thuật, hay văn hóa cho tụi Việt gian. Tất cả mọi sự hà hơi, tiếp sức cho Việt gian chỉ có thể kết luận đó là Việt gian hoặc hành động Việt gian!!!

Toàn bộ nhân sự, kiểu tổ chức, đường lối chính sách của tập đoàn mafia đỏ Hồ chí Minh cho đến nay có bề dài thời gian hơn nửa thế kỷ, đủ để soi rọi rõ ràng cũng như chúng đã bộc lộ rành rành là một lũ băng đảng mafia, Việt gian; là nguồn gốc của tham nhũng, đĩ điếm, phá hoại, vô luân v.v… Và đặc biệt là trong lịch sử Việt Nam, tập đoàn mafia đỏ Hồ chí Minh là tập đoàn duy nhất có chính sách nhất quán bán tài nguyên, con người và đất đai, sông biển của Việt Nam cho ngoại bang!!!

Tất cả mọi đường lối chính sách từ khi Hồ còn cầm quyền cho đến khi hắn chết được bè lũ do Hồ đào tạo để thay thế hắn từ Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn văn Linh, Đỗ Mười, Lê khả Phiêu và nay là Nông đức Mạnh đều thực hiện khẩu hiệu:

“Đối nội đàn áp thẳng tay
Đối ngoại đầu hàng, kết thân”

Và, đứa nào “nối nghiệp” cũng đều củng cố và nắm vững “cơ quan chuyên chính” là binh lính và công an cùng với độc quyền nắm chặt túi tiền.

Tùy theo tình hình quốc tế và mức độ giác ngộ của dân chúng, việc thực hiện các chính sách phản dân hại nước của chúng có màu mè, uyển chuyển xoay quanh cái trục là hai khẩu hiệu hành động nói trên.

Những cây bút “chống đối” ở trong nước thường phê phán việc đệ tử của Hồ đã thay đổi hiến pháp và sao chép điều 4 theo nội dung của hiến pháp Nga-xô (việc độc quyền của mafia đỏ) là làm sai đường lối của Hồ. Họ cố tình nhắm mắt giả làm “thầy bói sờ voi” để hô hoán rằng cái tai con chó Lê Duẩn, cái đầu con chó Trường Chinh, cái “giống” con chó Đỗ Mười, cái chân con chó Lê khả Phiêu, cái đuôi con chó Nông đức Mạnh không giống con chó sói Hồ chí Minh! Họ cố tình bỏ qua việc Hồ là kẻ mở màn việc hủy hiến pháp 1946 đẻ ra hiến pháp 1959 mà không “trưng cầu dân ý”. Họ cố tình không dám nghiên cứu xem âm mưu “cải cách ruộng đất” rồi “sửa sai cải cách ruộng đất”, “rèn cán chỉnh quân”, “cách mạng văn hóa tư tưởng”, “chỉnh đốn tổ chức”, “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh”, “ôn nghèo nhớ khổ”, “xây dựng con người mới XHCN”, “đào tạo cháu ngoan bác Hồ “ v.v… nhằm mục đích gì?(!) Họ cố tình quên việc Hồ trực tiếp ra lệnh cấm các đảng Dân chủ và Xã hội không được kết nạp đảng viên mới, không được phép xin ra đảng trừ khi bị chết (để tiện quản lý) và trong mỗi đảng có một “chi bộ cộng sản” trực tiếp lãnh đạo, giúp việc cho một “phái viên cộng sản” chịu trách nhiệm chung (cụ thể là các tên Phạm Hồng, Nguyễn việt Nam, Phạm tuấn Khánh – Cứ trực tiếp gặp các ông Hoàng minh Chính và Phạm tuấn Khánh hỏi xem để biết “hư thực ra sao”). Họ cố tình không nói đến việc Hồ “ị” ra cái gọi là “mặt trận tổ cuốc” để gom toàn dân theo nghề nghiệp, giới tính vào cái lồng gọi là “tổ chức riêng biệt của từng giới”; rồi tất cả những cái lồng đó lại được xếp trong cái sân nuôi “gà vịt” có lưới thép bao quanh, mang tên “mặt trận tổ cuốc”! Lý lịch của “bầy gà vịt” trong “mặt trận tổ quốc” do cục 78 bộ công an ngụy quyền Hồ chí Minh quản lý hộ. Và, khi nào, con gà nào được đưa đi hội chợ, con nào được cho ra “chọi thi”, con nào sẽ “luộc”, sẽ “quay”, sẽ “tấn”, sẽ “bóp gỏi” đều có sự bàn bạc của tên “quản lý trại gà”, và với cục 78 bộ công an ngụy quyền. (Thời điểm hiện nay, tức dưới thời họ Nông, vì tầm quan trọng nên do hai tên ác ôn là Phạm thế Duyệt và Lê minh Hương chỉ đạo việc lực chọn).

Hiến pháp 1959 của Hồ không có khoản nào như điều 4 của hiến pháp 1992 của đệ tử của Hồ là vì từ lúc bè lũ Hồ nhếch nhác vào Hà-nội 1954, tạm quản lý từ vĩ tuyến 17 trở ra Bắc thì bằng những chính sách nói trên, Hồ đã giết, đã bỏ tù toàn bộ các nhân sỹ yêu nước, các đoàn thể không cộng sản, các hội đoàn tôn giáo, các chức sắc tôn giáo v.v… cho đến cả những người vì nước bị đánh lừa vào tổ chức cộng sản. Nghĩa là toàn bộ những cá nhân, những tổ chức mà Hồ cho là vật chướng ngại, là không thích hợp cho việc thực thi chủ nghĩa thực dân đỏ. Hồ lại còn vô sản hóa toàn dân, biến tất cả thành nô lệ nên cần gì phải có cái kiểu như điều 4 hiến pháp 1992. Làm gì còn tổ chức nào, làm gì còn ai dám ra tranh quyền với Hồ và tập đoàn Việt gian cộng sản của hắn.

Trong thực tế, dưới tay Hồ cầm quyền, từ ngụy quyền Hà-nội với tất cả các ngành các bộ; từ các đại biểu “cuốc” hội; từ các thế lực chỉ đạo mặt trận tổ “cuốc”; từ đầu nậu các cái gọi là đoàn thể quần chúng; từ sinh viên, học sinh, xã viên hợp tác xã, công nhân, nông dân; từ sỹ quan ngụy, sỹ quan công an, thuế vụ v.v… chẳng có chỗ nào có “đối lập”, chẳng có “chỗ nào dám đối lập” vì tất cả đã được làm mồi cho giun hoặc đi “học tập” với “ngục sỹ Nguyễn chí Thiện”. Rồi bộ tư pháp bị hủy bỏ, không có khoa luật ở các trường; Hồ cai trị bằng sắc lệnh và lệnh miệng. Nghĩa là cái gọi là điều 4 được thực thi trọn vẹn và triệt để đến mức chẳng cần ghi vào hiến pháp vừa lòng thòng vừa lộ mặt chó sói của Hồ

Xin lưu ý bạn đọc và các cây bút “chống đối” ở trong nước mà “đề cao Hồ”, rằng: Hồ là loại “siêu”, hắn không thèm ghi vào hiến pháp mà hắn cứ việc làm còn quá đáng hơn các đệ tử của hắn ghi vào hiến pháp “mới”! Dám làm!!!

Các vị đều nếm mùi họ Hồ rồi, sao cố tình quên làm “chi dzậy”. Mong các vị, toàn là những học giả đầy lý luận, có dũng cảm “chống đối” tập đoàn cộng sản Việt Nam hiện nay hãy dũng cảm nhìn vào quá khứ thời họ Hồ để thấy một sự thật rõ ràng bằng cả số liệu, bằng cả hình ảnh rằng:

Họ Hồ là cái gốc của mọi tội ác giáng lên đầu nhân dân đất nước Việt Nam, còn lũ kế nghiệp Hồ từ Lê Duẩn trở đi chỉ là các cành lá có kích thước, thậm chí mọc theo phương hướng khác nhau nhưng vẫn là cùng chung một gốc. Chỉ có chặt cái gốc mới tiêu diệt được mọi tội ác mà nhân dân và đất nước Việt Nam đã và đang phải gánh chịu!!!

Một câu hỏi được đặt ra là tại sao lũ đệ tử của họ Hồ phải trắng trợn nặn ra cái gọi là “điều 4 hiến pháp ngụy quyền cộng sản 1992” và khai tử luôn hai cái đảng bại liệt Dân chủ và Xã hội?

Câu trả lời thật ra rất đơn giản và rõ ràng. Chỉ có điều vì thiếu “tư duy khoa học”, thiếu dũng cảm và trung thực nên người ta cố tình “nhắm mắt” giả ngủ mê, ú ớ nói mơ những điều mơ hồ vô nghĩa.

Nhiều người đang đóng vai tiến bộ, ăn nói mạnh bạo nhưng chỉ đề cập đến những cái thứ yếu, mà vẫn né cái thực tế lù lù như thái sơn.

Xin lặp lại chuyện cũ, bắt đầu từ trước 30-4-1975. Đó là “vụ án nhạc vàng” ở Hà-nội. Nhiều thanh niên Việt Nam ở Hà-nội khi đó, có cả cháu dâu Phạm văn Đồng, là diễn viên điện ảnh nổi tiếng, tên gọi là Trà Giang (ủy viên ban chấp hành hội liên hiệp văn học nghệ thuật, trụ sở tại 51 Trần Hưng Đạo, Hà-nội) thường tụ họp nhau hát “nhạc vàng”. Tức là hát những bài hát của Việt Nam Công Hòa được phát trên làn sóng điện đài mà họ lén nghe và học htuộc được. Nạn nhân chính của vụ án nhạc vàng là ông Toán “xồm”, khi bị tòa án mafia đỏ Hà-nội cật vấn, đã thành khẩn “nhận tội” yêu thích chế độ miền Nam mà chỉ do giai điệu và lời bài hát của miền Nam mà thôi. Kết quả là ông Toán bị kết án 12 năm tù khổ sai. Những người chung vụ bị án từ 6 năm đến 10 năm tù. Nhưng trên thực tế chẳng ai được ra tù sau khi mãn hạn, mà ở mút chỉ luôn, có người bỏ xác lại nhà tù của “ông tiên” của Lữ Phương! Riêng Trà Giang thoát hiểm vì có cái ô dù là Phạm văn Đồng, mặc dù Trà Giang còn “táo tợn” nhận xét: “Nhạc miền Nam tình người chứ không gân guốc sắt máu như nhạc miền Bắc!”

Phóng viên AFP ở Hà-nội khi đó đã đưa tin và nhận xét nhẹ nhàng đại ý rằng: “Theo luật pháp hiện hành của Hà-nội thì không có khoản nào nói rằng thích trong tư tưởng một chế độ xã hội nào đó mà bị coi là có tội”.

Tổ tiên ta đã dạy rằng: “Trăm nghe không bằng một thấy. Trăm thấy không bằng một sờ. Trăm sờ không bằng một nếm”. Nhóm ông Toán chỉ “nghe” mà đã “yêu thích chế độ miền Nam”. Còn Trà Giang, công dân loại 1, loại siêu (vì Trà Giang còn là đại biểu “cuốc” hội ngụy quyền Hồ chí Minh), được ngụy quyền Hà-nội phong tặng danh hiệu “nghệ sỹ ưu tú”, “nghệ sỹ nhân dân” mà nhận xét nhạc miền Nam tình người, còn nhạc mafia đỏ thì sắt máu. Chắc chắn chẳng ai ép buộc, dụ dỗ ông Toán và diễn viên Trà Giang phải nói như vậy. Có nghĩa là nhận xét chân thành từ trái tim.

Vì sao có nhận xét đó? Vì các loại hình nghệ thuật trong tay Hồ chí Minh không được phục vụ nhu cầu thẩm mỹ mà là phương tiện kích động để thực hiện “tư tưởng” của Hồ là chém giết. Ngay trong giáo dục cũng vậy. Các em bé đi vườn trẻ, nói còn chưa sõi đã nghe “cô giáo” kể chuyện “Anh “bộ đội” mỗi ngày giết bao nhiêu “lính ngụy””. Rồi “cô giáo” hỏi các em: “Lớn lên các em làm gì?” Tất nhiên các em được dạy để đồng thanh trả lời: Lớn lên em cầm súng giết Mỹ-Ngụy”. Cô giáo hân hoan: “Đúng! Các em giỏi lắm! Các em sẽ là “bộ đội bác Hồ” giết thật nhiều Mỹ-Ngụy”. Nhiều em về nhà vẫn còn bị ám ảnh việc giết người như thế, nên có em hỏi cha mẹ: “Bố mẹ có muốn giết Mỹ-Ngụy không?”

Cho uống mật gấu cũng chẳng ông bố bà mẹ nào dám nói không. Chưa nói đến việc nhiều gia đình, bố mẹ còn hùa theo: “Phải giết thật nhiều mới là cháu ngoan bác Hồ”.

Nội dung nghệ thuật và định hướng giáo dục đó của Hồ chí Minh đã “đơm bông kết trái”. Thí dụ cụ thể: hai đứa con trai của Đinh thị Cẩn (người tình của Hồ), phó chủ nhiệm thường trực ủy ban bảo vệ bà mẹ và trẻ em, ủy viên dự khuyết trung ương mafia đỏ, nghe bạn cùng lớp có xích mích với một thanh niên nào đó, đã cầm dao giết người giữa thanh thiên bạch nhật ở phố Huế (cạnh tiệm phở Tân Việt). Khi biết giết lầm người chúng chẳng chút ăn năn mà còn định đi giết nữa. Dân qua đường, không biết chúng là con mụ Đinh thị Cẩn nên bắt giao cho công an, tạm giam ở Hỏa-lò. Ngay tối đó Hoàng quốc Việt đích thân lái xe hơi đến đón chúng ra, rồi cho qua Nga-xô học.

Con trai tướng Nguyễn văn Vịnh cũng vậy. Một ông già đi xe đạp lúc tan đá bóng ở sân Hàng Đẫy (Hà-nội) ra, chập choạng tay lái va phải nó, thế là nó rút dao đâm chết ông già, nhổ nước miếng bỏ về nhà ở đầu Cao Bá Quát, gần ngay đó. Bị dân la ó, công an đuổi theo, khi thấy nó vào nhà Nguyễn văn Vịnh (lúc đó đã bị quản thúc vì vụ án xét lại), công an mở số lùi. Thằng sát nhân đó cũng được cho vội qua Nga-xô để đào tạo.


(Còn tiếp)

(Theo Web Hồn Việt - http://hon-viet.co.uk/)

Aucun commentaire: