Hô Chí Minh làm tay sai cho Công San Quôc tê' (5/8) (III) ( TapTa
(trích biên khảo "Bộ Mặt Thật của HCM" của N. Thuyên)
2. Do vậy mà các cuộc đấu tố trở nên hỗn loạn. Không ai bảo ai, mọi người đều đặt câu hỏi : - Nếu đêm nay, chẳng may mình bị đem ra đấu tố đánh đập, thì phải khai như thế nào cho đỡ đòn ? Có người lanh trí lý luận rằng, muốn cho đảng và nhà nước đình chỉ phong trào đấu tố, nên lợi dụng tình trạng hỗn loạn này để khai rằng chính các cán bộ đảng, hoặc bà con thân thích của các cán bộ đảng viên là những tên "phản động". Kết quả là nhiều cán bộ đảng viên bị khai tên cũng bị bắt tra tấn như các "phản động" khác. Các Chi bộ đảng không có cách nào can thiệp ngay, vì khẩu hiệu mà đảng đã nêu ra là "Phóng tay phát động quần chúng đấu tranh chống phản động". Đảng đã tuyên bố và ra lệnh cấm tuyệt đối, không một cá nhân nào, hoặc cán bộ nào được can thiệp, ngăn cản việc phát giác và đấu tố của nhân dân. Thế là cán bộ đảng viên trở thành nạn nhân của đảng, đúng như câu thành ngữ VN "Âm binh quật phù thủy".
Lắm lúc, người bị tra khảo mất hết tinh thần, nên khi bi. hỏi "Trong tổ chức phản động của mày có những ai ?" bèn giơ tay chỉ ngay người đang ngồi chủ tọạ Ông chủ tọa bi. lôi xuống chịu đòn tức khắc. Nhưng sau đó, cuộc đấu tố phải tạm ngưng vì... không có ai ngồi chủ tọa !
Sau một thời gian ngắn, Hồ Chí Minh và đảng của Hồ nhận thấy tình hình trở nên quá nghiêm trọng, nên gởi điện hỏa tốc từ trung ương xuống các địa phương đình chỉ ngay các cuộc đấu tố. Nhưng trong điện văn có ghi rõ là "Phải giam giữ cẩn thận những kẻ mà nhân dân đã sáng suốt tố cáo là phản động".
Lệnh giam giữ những nạn nhân của các cuộc đấu tố chứng tỏ dụng tâm của HCM và đảng của Hồ đã vạch sẵn. Đảng muốn tiêu diệt những phần tử thuộc các đảng phái Quốc Gia yêu nước còn lẫn lộn trong quần chúng nông thôn, hoặc tạm thời gạt bỏ ra ngoài xã hội các thành phần mà đảng nghi ngờ, có thể chống đối các chính sách của đảng sau này.
Quả thật, trong các vụ đấu tố, trung bình mỗi xã có từ 5 đến 10 người bị ghép những tội nặng nhất, bị đánh chết hoặc đã uất ức tự tử, trong số đó có một Bô.
Trưởng đương thời của chính phủ nước VNDCCH do HCM làm chu? tịch, là ông Đặng Văn Hướng, được nghỉ phép về quê thăm nhà, gặp phải vụ đấu tố địa phương, cán bộ xã ơ? địa phương không biết ông ta là Bộ Trưởng, chỉ biết sơ qua ông ta trước kia thuộc thành phần khá giả, có học thức, lại đi đâu vắng một thời gian, đúng là tên "phản động" nên mang ra đấu tố cùng với người anh ruột thuộc thành phần phú nông trong xã.
Trong lúc ấy, từ HCM cho đến các Bộ Trưởng khác, từ Chu? tịch cho đến các Tỉnh ủy, không ai đoái hoài đến số phận những người bi đấu tố nên cả hai ông đều uất ức tư. tử chết. Ông Đặng văn Hướng là thân phụ của một Đại-tá VC từng nổi tiếng là "Anh hùng lộ số 4" vì mấy năm trước đó, viên Đại-tá này đã đánh thắng Pháp mấy trận ở Cao Bắc Lạng. Riêng số phận của những người bi."phát giác" là phản động thì bị giam trong các trại tập trung ở vùng rừng núi, tự sản xuất sinh sống, có đảng viên làm cai tù, kéo dài mãi cho đến khi có phong trào "Sữa Sai" năm 1956 mới được tha.
Chẳng phải chỉ có những phần tử Quốc Gia mới là nạn nhân của những màn đấu tố thanh lọc dã man, mà cả những người giàu có lúc trước, sau này ý thức được cuộc chiến đấu giành độc lập, đã đóng góp hết tài sản của mình cho phong trào Việt Minh, rốt cuộc cũng bị đem ra đấu tố.
Điển hình là vụ bà Cát Hanh Long bị tra tấn đến chết tại một "phiên tòa" tòa án nhân nhân. Bà Cát Hanh Long là một phú thương đã "giác ngộ" phục vu. kháng chiến ngay từ thời kỳ Việt Minh mới cướp được chính quyền. Bà Long đã một thời được đảng CSVN tôn vinh là "Mẹ chiến sĩ" nhờ thành tích cống hiến vàng bạc của cải để nuôi chiến sĩ. Nhưng đến khi phát động chiến dịch đấu tố nhằm bứng tận gốc các thành phần Quốc gia tư sản thì Cộng sản đã lôi bà Long ra đấu trường đê? "nhân dân" luận tội.
Thế là bà Cát Hanh Long bị trói và đánh dập tàn nhẫn đến chết tại chổ. Con trai của bà Long đang cầm quân kháng chiến cũng bị "hạ tầng công tác" vì là con của một... "thương gia giàu có".
Đây là dã tâm, phản trắc và độc ác vô song của HCM và những người CSVN. Đã là con người, dù chỉ có chút ít ý thức đạo đức, không ai có thể hành động như vậy được !
Trong khi các cuộc đấu tố dã man, đa số diễn ra ở nông thôn, thì ở các thị trấn cũng có tổ chức những cuộc đấu tố tương tự nhưng với hình thức nhẹ hơn. Lý do là vì những tiểu thương ở các thị trấn có nề nếp tô? chức sinh họat, đa số là người tứ xứ không quen biết nhau nhiều nên không có hận thù nhaụ Hơn nữa, tại các thị trấn này chỉ có buôn bán vặt, vì CS đã phá sạch địa ốc ở các thành phố lớn qua chính sách "Tiêu thổ kháng chiến" chống Pháp, không để cho quân Pháp chiếm đóng lập căn cứ.
Thực ra, dã tâm của CSVN là thực hiện phá sản giai cấp, dẹp tư sản thành thị mà CS coi là khó cai trị, cho nên các thi. trấn thuộc vùng CS kiểm soát chỉ là những dẫy nhà lá, giáp ranh các xã có nhiều người qua lạị Chủ nhân các "quán" nhà lá này trước kia là những người sinh sống ở thành thị, nay bị VC cướp/đốt mất hết cơ nghiệp, phải di tản về vùng thôn quê, không có ruộng hay không quen làm ruộng, nên dựng lên túp lều buôn bán lặt vặt sống tạm qua ngày tháng.
Vì vậy, các cuộc đấu tố ở các thị trấn có phần nhe nhàng hơn ở các nông thôn.
Dân thành thị "lanh láu" hơn dân ở nông thôn nên ngay từ những cuộc đấu tố đầu tiên, có nhiều người chưa bi. cái bạt tay nào đã "quỳ gối thú tội" rằng họ có "bốc lột để sống qua ngày". Những tội ấy không có gì "phản động" cho lắm. Và vì thiếu "phản động" để kéo dài các cuộc đấu tố theo thời gian ấn định của đảng nên các cán bộ VC phải đi lùng bắt, truy nã những ai dùng hàng ngoại hóa, xa xí phẩm.
Trong giai đoạn này, những ai ăn mặc tươm tất, có mùi nước hoa thơm thơm là có trọng tội với đảng và chính quyền. Các cán bộ VC, các "cảm tình viên" của đảng phu. trách công tác này, đón ở các ngả đường, thấy ai ăn mặc tươm tất, có mùi nước hoa thì họ bắt phải tự tay phết bùn đất lên mặt và "gội đầu" bằng chậu nước rửa chén để sẵn và đánh đập tùy thích. Có nhiều anh chị đã thấy cảnh ấy nên khi bị chận là.i liền "xung phong" xin gội đầu bằng nước rửa bát để tránh bị đánh đập. Một nạn nhân trong vụ ăn mặc tươm tất này là bà vợ của bác sĩ Nguyễn Bát Can, đậu bằng bác sĩ y khoa ở Pháp qua cái tên Dr. Pascal Nguyễn, đang phục vụ tại một bệnh viện của Việt minh CS. Vì bà quen ăn sang mặc đẹp nên bị CS mang ra đấu tố, đánh gần ngất ngư.
Tình trạng đấu tố ở nông thôn và thành thị phát triển theo hai hướng trái ngược nhau. Trong khi các cuộc khủng bố tại nông thôn mỗi ngày thêm ác liệt , có nơi đi đến hỗn loạn, thì tại các thị trấn diễn ra những cuộc chống phản động bằng chiến dịch "đấu tranh chống lề lối sinh hoạt tiểu tư sản" một cách vớ vẩn. Tình trạng này đã khiến cho người dân ở các vùng nông thôn nhanh chân bỏ chạy ra thành thị ẩn náu mỗi ngày một đông, vì họ nhận thấy ở chốn thị thành ít xảy ra bạo động như ở nông thôn. Nên sau đó, đảng và chính quyền CS ra lệnh giải những người cư ngụ trái phép trở về nguyên quán.
Sau những cuộc đấu tố đẫm máu, HCM có viết một "bức thơ" gởi khắp nơi "xin lỗi đồng bào", bắt buộc tất ca? xã ấp phải tổ chức những buổi học tập rộng rãi cho nhân dân hiểu về bức thơ của họ Hồ. Trong thơ, HCM nhìn nhận đảng và chính phủ "đã có sự thiếu sót" trong việc lãnh đạo phong trào "phóng tay phát động quần chúng đấu tranh", khiến nhiều địa phương có những đồng bào đã khinh thường luật pháp, hành động trái với "chủ trương nhân đạo, khoan hồng" của đảng và chính phủ. Các cán bộ hướng dẫn đồng bào học tập có kể cho dân chúng nghe là... "Khi Hồ chủ tịt viết bức thơ xin lỗi đồng bào, họ Hồ vì xúc động, bực dọc, đã chảy nước mắt".
Câu chuyện trên đây, chắc chắn cán bộ của Hồ không dám bịa đặt, vì mọi người đều biết họ Hồ đóng trò rất tài tình, muốn cười, muốn khóc, và cả muốn hôn lúc nào cũng được. Nhờ "có tài" như vậy nên lúc đi thăm Ấn đô. và Nam Dương, là những nơi còn giữ tập quán "Nam nữ tho. thọ bất thân", họ Hồ cứ tự nhiên ôm các bà các cô hôn lia lịạ Năm 1959, tờ nhật báo Djakarta (Nam Dương) đã tặng Hồ biệt hiệu "Vị chủ tịt thích hôn".
Sau khi cho học tập bức thơ xin lỗi đồng bào, HCM ra lệnh cho các Ủy ban Xã, Huyện, Tỉnh báo cáo lên cấp trên những vụ đấu tố quá đáng, đồng thời phải lập DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI ĐÃ SÁNG SUỐT KỊP THỜI THẤY SỰ SAI TRÁI CỦA ĐẢNG TRONG CHIẾN DỊCH ĐẤU TỐ và đã cố gắng ngăn cản.
Đa số những người có tên trong danh sách trên đây là những cán bộ đảng viên cơ sở Xã, Ấp , hoặc đã từng trốn tránh nhiệm vụ trực tiếp đấu tô tra khảo, hay đã bo? chạy lên Huyện, Tỉnh để tìm cách xoay sở cứu các thân nhân đang bị đấu tố. Những cán bộ đảng viên này được Tỉnh Ủy mời lên, tưởng là được ban khen, không ngờ lại bị tống vào các trại "quản huấn", vừa lao động, vừa học tập lại những "nguyên tắc bất khả xâm phạm" của chủ nghĩa Mátxít-Lêninít.
Mãi đến ba năm sau, trong chiến dịch "Sửa sai", song song với chiến dịch "Cải cách ruộng đất", họ mới được tha về. Trên đây là một bằng chứng điển hình về chủ trương và thủ đọan độc ác của Hồ chí Minh, ngoài việc tiêu diệt các thành phần yêu nước còn ẩn náu ở nông thôn, HCM còn ra lệnh trừng phạt các đảng viên, tuy trunh thành với đảng, nhưng không tích cực tán thành các chính sách khủng bố của đảng.
Chiến dịch "Sửa sai" đã gây hiểu lầm và ảnh hưởng đến chủ trương, mục đích phát động chiến dịch "Cải cách ruộng đất" dài hạn của họ Hồ và đảng CSVN. Qua các cuộc đấu tố, đảng và nhà nước của Hồ đã mất nhiều uy tín, nên một số đông nông dân bị mất cả tài sản, nhà cửa đâm ra oán trách "cụ Hồ". Hàng ngàn dân công gánh gạo tiếp tế cho bộ đội của Hồ làm reo, quăng gánh gạo bỏ về nhà. Các dân quân của một xã nọ đã vây bắt cả một chị bộ đảng đang họp kín. Dân quân cho họ là bọn phản động, lấy cớ là họp kín bất thường, vì cái gì bây giờ cũng phải công khai trước nhân dân. Sau đó, cán bộ đảng ở cấp cao hơn phải về giải thích giải tỏa những sự hiểu lầm đó.
Tình hình các vùng nông thôn lúc bấy giờ tương đối yên ổn hơn, nên những kẻ đã bỏ chạy ra thành thị lần lượt trở về làng cũ. Đảng và chính quyền giả vờ làm ngơ không hạch tội để lấy lòng những người nông dân vốn đã sơ. hãi nghi ngờ chủ trương độc ác và đường lối sắc máu tàn nhẫn của họ Hồ.
Phải nhìn nhận là trước thời gian này, rất nhiều người nhiệt tình theo kháng chiến chống Pháp, vì tinh thần yêu nước, nên có thiện cảm với Việt minh Cộng sản, nay đã mất hết tin tưởng. Họ nhận thấy rõ là HỒ CHÍ MINH CHỈ LÀ MỘT TÊN TAY SAI CỦA CỘNG SẢN QUỐC TẾ, CHỈ BIẾT TÔN THỜ ĐẢNG CỘNG SẢN, ĐÃ ĐÀN ÁP DÂN TỘC VIỆT NAM BẰNG NHỮNG CHÍNH SÁCH NGOẠI LAI ÁC NGHIỆT MÀ TỰ NGÀN XƯA, CHƯA TỪNG XẢY RA DÙ BẤT CỨ DƯỚI THỜI ĐẠI NÀO TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM.
Mọi tầng lớp dân chúng bắt đầu bàn tán xôn xao và cho rằng HCM và đảng của Hồ đã nắm hết mọi quyền hành trong tay, đã thanh toán các đảng phái yêu nước, lại còn dùng những thủ đọan tàn ác để trừng trị các thành phần nông dân bằng chiến dịch "phát động quần chúng", gán ghép bất cứ ai không phải là đảng viên CS là "đối phương". Thủ đoạn ấy quả thật là vô cùng tàn ác, tiểu nhân và bần tiện. Do đó, mọi tầng lớp nhân dân đều có một nhận xét tương tự rằng HCM và đảng của Hồ sẽ không bao giờ có chính sách nhân đạo, công bằng để trị dân, đem lại cơm no áo ấm và tiến bộ cho dân tộc và đất nước VN.
Cho nên, số đông quần chúng chán nản và thất vọng dần dần và luôn luôn phập phòng sợ hãi trong một chế đô. độc ác lạc hậụ Không kể là ngày hay đêm, người dân bi. bắt buộc phải đến các nơi tập trung, để cán bộ CS nhồi nhét chủ nghĩa Mátxít-Lêninít nhàm chán, nhưng không ai dám có ý kiến gì cả, chỉ được hô "đồng ý nhất trí" với bất cứ lý luận nào hay chủ trương nào do đảng CS đề ra. Người dân sống trong vùng do Việt Minh kiểm sóat gần như mất hết lý trí, một phần vì bị nhồi sọ, một phần vì quá sợ hãi.
Đời sống mọi tầng lớp dân chúng mỗi ngày một kiệt quệ, tinh thần ngao ngán bơ phờ, nên họ lần lượt trốn sang vùng Pháp kiểm soát để tạm dung thân qua cơn khủng hoảng. Đó là một lựa chọn bất đắc dĩ chớ không phải ho. muốn theo Pháp.
Đa số dân chúng đã từng ủng hộ Việt minh kháng chiến chống Pháp, nay ân hận khi biết rõ HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CỦA HỒ CŨNG CHỈ LÀ MỘT THỨ ĐẾ QUỐC PHÁT XÍT CÒN ĐỘC ÁC, KHẮC NGHIỆT HƠN BẤT CỨ ĐẾ QUỐC NÀO TỪ XƯA TỚI GIỜ. Dân chúng kết luận rằng : HỒ CHÍ MINH LÀ CON RẮN ĐỘC ÁC NHẤT TRONG LỊCH SỬ NƯỚC VIỆT NAM. HỒ CHÍ MINH ĐÃ "CÕNG RẮN CẮN GÀ NHÀ - RƯỚC VOI VỀ DÀY MẢ TỔ".
Dân chúng đã có sự so sánh chế độ CS với chế độ thực dân ngày trước và cho rằng : Tuy chế độ thực dân thiếu tự do, không công bằng, nhưng ít ra, bọn thưc dân còn có một vài hình thức pháp lý để trị dân. Thực dân cũng bắt bớ, tù đày hay giết những kẻ chống đối, nhưng thực dân không bắt dân lành quê mùa chất phát phải làm nô lệ ca? tinh thần lẫn thể xác như những tù nhân trọng tội bằng thủ đoạn "phát động quần chúng", gây thù hằn chém giết lẫn nhau như những người CS.
Cả những đảng viên đã từng trung thành với đảng CS cũng bắt đầu ngờ vực. Họ tự hỏi, nếu gây quần chúng căm thù lẫn nhau, thì cuộc cách mạng dù có thành công, sẽ đi về đâu ? Họ nghĩ rằng, trong một xã hội mà người mạnh hiếp ke? yếu, giàu bốc lột nghèo, là một địa ngục, là sự bất ổn triền miên. Họ lại càng không tin ở cái xã hội mà những kẻ thất học dốt nát lỗ mãng nghèo đói lại có quyền đánh đập tàn nhẫn những người khá giả hơn để xây dựng một đất nước giàu đẹp theo chủ thuyết Mátxít. "Thiên đường kiểu Cộng sản" trên mặt đất này chỉ là một ảo mộng.
Do sự mất tin tưởng của các đảng viên và tình trạng dân chúng ngấm ngầm bất mãn, Hồ chí Minh và các đồ đệ vội vã áp dụng hai biện pháp, vừa đánh tan luồng tư tưởng tác hại trên, vừa tung một đòn mạnh để áp đảo tinh thần người dân :
1. HCM ra lệnh tổ chức ngay một chiến dịch "Cải tạo tư tưởng" cho cán bộ đảng viên CS học tập thấu triệt chủ trương "Phóng tay phát động quần chúng" tuy có những "sai lầm lặt vặt", nhưng vẫn đạt được chính sách "hợp tình hợp lý". Cán bộ CS lý luận rằng... "hợp tình" ở chổ, mọi người dân được quyền vạch mặt chỉ tên bọn phong kiến bóc lột, không sợ một áp lực nào và "hợp lý" ở chổ, người dân được quyền trừng trị bọn phản động, chính quyền không có nhúng tay, v.v...
2. HCM vội vã cho thành lập một tòa án quân sự tại mỗi tỉnh để xét xử những người bị giam giữ trong các vụ đấu tố, với mục đích gán cho họ cái tội "Việt gian", chứng minh cho dân chúng thấy rằng, nhờ nhân dân giác ngộ, sáng suốt tố giác bọn Việt gian phản động, tay sai cho giặc Pháp. Lấy cớ đó, đảng đày ải, thủ tiêu những thành phần Quốc gia yêu nước hoặc bất cứ thành phần nào không ưa thích CS, để uy hiếp tinh thần dân chúng, dù ngấm ngầm bất mãn, cũng phải cúi đầu ngoan ngoản làm nô lệ cho Việt Minh Cộng Sản.
Sau chiến dịch học tập cải tạo tư tưởng lập trường cho các đảng viên CS và khủng bố đồng bào bằng những toà án quân sự, tất cả các đảng viên và cán bộ chính quyền Việt Minh CS đều nắm hết các vai trò lãnh đạo và quản lý mọi việc, từ chính trị, kinh tế, tới xã hội, quân sự, v.v...
Họ bắt nhân dân phải làm, để đảng hưởng (kiểu nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý), được thì đảng nhờ, sai trái thì dân phải chịu (kiểu ngồi mát ăn bát vàng).
Đảng viên CSVN bổng nhiên thấy mình có quyền uy lợi lộc, làm chủ nhân ông, nên hăng hái làm theo lệnh đảng. Bởi đa số bọn họ thuộc thành phần thất học, nghèo kém vào bậc thang thấp nhất trong xã hội ngày trước, nay được ăn trên ngồi trước và hưởng đủ thứ quyền lợi, đặc ân... nên đảng chỉ đâu làm đó. Đó là miếng mồi ngon để câu một số người thấp kém khác, vốn chiếm đa số trong xã hội. Cả những kẻ trước đây lừng chừng chao đảo, nay cũng xin gia nhập hàng ngủ cảm tình viên của đảng CS, đi đầu thúc đẩy mọi chủ trương công tác do đảng đề ra, nhằm lập công để chính thức xin vào đảng.
HCM thấy đã thành công trong việc củng cố và phát triển đảng mạnh hơn trước, bèn đề ra chính sách mở rộng đảng bằng khẩu hiệu "Liên kết trung nông, lôi kéo phú nông" và chỉ cô lập, đày ải thành phần địa chủ, trí thức, tư bản, là thành phần mà đảng cho là ngoan cố phản động, bởi đảng khó phỉnh dụ họ tiêm nhiễm chủ thuyết Mátxít ngoại lai.
Từ đó, sự phân biệt giai cấp tại những vùng do Việt Minh CS kiểm soát thật chặt chẽ, khắc khẹ Những ai bị chính quyền Việt Minh CS liệt vào các thành phần tư bản, trí thức, địa chủ ngoan cố, phản động, lập tức bị bao vây cô lập trong mọi sinh hoạt hằng ngày, kể cả việc kết hôn giữa giai cấp này với giai cấp nọ cũng bị cấm đoán tuyệt đốị
Ai may mắn chưa vào tù thì cũng như cá nằm trên thớt, còn ở nhà nhưng phập phồng như đang mang án treo chung thân, không biết lúc nào mình bị bắt mang đi đày ải, hoặc giết chết, nên không ai dám liên lạc ai, dù là họ hàng thân thích.
Lắm lúc, họ muốn trốn sang vùng Pháp chiếm đóng nhưng việc này rất khó khăn, vì ra khỏi nhà là có tai mắt theo dõi khít khao, có thể bị bắt cóc thủ tiêu giữa đường không ai hay biết. Hơn nữa, từ nhà họ đến vùng Pháp kiểm soát có quá nhiều chướng ngại như hầm hố chông gai, mìn, trạm gác, v.v... Ngoài ra, hầu hết các cầu đường đều bi. phá hủy, nên hầu hết người dân ở các vùng nông thôn đành chấp nhận thân phận "cá nằm trên thớt".
Những người này, tuy may mắn chưa bị giết trong các cuộc đấu tố hay bị đày ải trong tù, nhưng luôn luôn phập phòng sẽ có một ngày "tai bay họa gởi".
Quả thật, sau mỗi vụ Pháp bỏ bom phá hủy đê điều thủy lợi, thì một số dân trong vùng lập tức bị bắt tra tấn, bị ghép tội là Việt gian phản động, đã tiếp tay chỉ điểm, vẽ bản đồ cung cấp cho Pháp, v.v... Nếu Pháp bỏ bom nhằm kho lúa của đảng và chính quyền Việt Minh thì "tội" của họ càng nặng hơn và thường bị xử bắn tại chổ.
Ai cũng biết là toàn bộ bản đồ VN và Đông Dương đầu thế kỷ 20 là do Pháp vẽ, hầu hết các hệ thống đê điều dẫn thủy nhập điền tại VN do Pháp xây dựng, thế mà cán bộ VC lại đổ lỗi cho những người nông dân, thường vì họ không có cảm tình với đảng CSVN, cái tội đã vẽ bản đồ và chỉ điểm cho Pháp. Sự kiện phi lý, khôi hài này đã phơi bày bản chất tiểu nhân bỉ ổi của những người CSVN.
Nhưng đối với Cộng sản, nếu tiểu nhân vốn là bản chất, thì phi lý không phải là một trở ngại trong các mưu đồ của họ. Người CS chỉ cần có quyền, có sức mạnh, để họ có thể lý luận một chiều, và bắt mọi người phải nghe, phải công nhận là phải là đúng. Nếu ai ngây thơ lý luận ngược lại sẽ bị ghép tội là Việt gian
phản động và chịu muôn vàn cực hình khổ đau chồng chất.
Vì vậy, dù lúc bấy giờ có rất nhiều người đã ý thức được rằng Hồ chí Minh và bè đảng là những tên Việt gian phản quốc số một, nhưng họ không dám nói rạ Tại sao ?
1. HCM và đảng CSVN (đảng Lao Động) đề ra chu? trương "Phản Phong" nhắm mục tiêu tiêu diệt sạch mọi thành phần yêu nước, không chịu làm tay sai
cho Cộng sản, vì CS chủ trương áp đặt một chế độ độc tài, dã man trên đất nước VN.
2. Chính sách cai trị của HCM và đảng CSVN hoàn toàn đảo lộn luân thường đạo lý VN, xóa bỏ những đức tính nhân, lễ, nghĩa, trí, tín mà cha ông đã dày công vun bồi từ trước đến giờ, để phục vụ cho một chính sách ngoại lai ác độc. Chính sách "Phản Đế" do HCM đề ra nhằm che đậy việc HCM và bè lũ làm tay sai cho đế quốc CS.
Hồ chí Minh và đảng CSVN áp dụng chiến thuật "vừa ăn cướp vừa la làng" bằng hình thức chống thực dân Pháp hay đế quốc Mỹ là những người nước ngoài, nên muốn nói hươu nói vượn, gán ghép thế nào cũng được, chỉ cốt làm cho dân chúng tối tăm mặt mũi, để chúng dễ bề áp đặt các chính sách độc tài và ngu dân.
Thời đó, HCM đã đặt công tác tuyên truyền chiếm hai phần ba công cuộc kháng chiến chống Pháp, đến đổi trong các trường tiểu học cũng tuyên truyền nhồi nhét vào đầu các cháu mới chín mười tuổi, làm các cháu chỉ biết ca tụng "bác và đảng" mà thôị Đề các bài toán đố cũng mang màu sắc tuyên truyền, đôi khi đến độ phi lý, ví dụ nhự.. "Một cán bộ dân quân phục kích một toán quân Pháp bắn một viên chết 3 tên Pháp. Nếu bắn tiếp ba viên nữa, sẽ hạ sát được bao nhiêu địch ?
Mặc dù lối tuyên truyền của Cộng sản là ngây ngô và phi lý, nhưng họ chủ trương cho lập đi lập lại tại bất cứ nơi nào có sinh họat nhân dân, như vậy, lâu ngày nhân dân sẽ nhập tâm và tin là thực là đúng.
HCM rất tiểu xảo, gian manh. Hắn lựa chọn đồ đệ đa số thuộc thành phần thất học, có tiền án, rồi dùng đa số áp đảo thiểu số, và đặt nặng vấn đề nhồi sọ thế
hệ trẻ bằng mọi hình thức đầu độc trường kỳ. HCM chẳng những đã dùng các thành phần thất học làm căn bản trong việc thi hành các chính sách phi dân tộc, mà còn xư? dụng cả những tên cờ bạc, cướp của, giết người tại các địa phương để đánh đập tra tấn dân lành thay thế các cán bộ đảng viên.
Tình trạng hổn loạn tại nông thôn trong các vùng do Việt Minh kiểm soát ngày càng lan rộng, vì các phần tử dốt nát lưu manh luôn luôn đố kỵ kẻ tài đức, nên sẵn sàng tố giác họ là những tên Việt gian phản động, và sẵn sàng đánh đập họ tàn nhẫn để lấy lòng đảng và thị uy với nhân dân. Những tên thất học và lưu manh chẳng hiểu gì "tư bản, đế quốc, thực dân" nên đảng nói sao làm vậy. Bọn ngu dốt, lưu manh thường bị những người lương thiện và hiểu biết khinh rẻ nên thừa cơ hội này, chúng trả thù bằng cách vu cáo họ là "phản động Việt gian" !
Hồ chí Minh chẳng những có thủ đoạn tiểu xảo mà còn biết áp dụng sách lược "Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã" để đạt đến ý đồ tiêu diệt mọi thành phần khác, độc quyền cai trị dân theo đường lối Cộng Sản
*
***
*
Hồ Chí Minh, tay sai của Cộng sản quốc tế (7/8) (IV) ( Phuong-Nguyên )
(trích biên khảo "Bộ Mặt Thật của HCM" của N. Thuyên)
Sau mỗi chiến dịch khủng bố dân chúng, HCM ra lệnh kiểm thảo, còn gọi là "công tác tư tưởng" nhằm đẩy mạnh tinh thần đảng viên, tránh né những lỗi lầm gây căm phẫn trong lòng dân chúng và ghép tội những ai đã chống đối đường lối CS để loại trừ họ ra khỏi hàng ngũ kháng chiến. Bản thân HCM đã rút kinh nghiệm tại Trung Quốc trước kia khi Quốc Dân Đảng và đảng Cộng sản Trung hoa liên kết với nhau trong cuộc Bắc phạt. Sau khi liên quân Quốc Cộng chiếm được Thượng Hải, Tưởng Giới Thạch bắt nộp khí giới và bắt hết quân Cộng sản. Lúc đó, HCM đang ở Quảng Châu. Nhờ sự che chở của phái bộ Nga nên được đưa về Moscou. Mao Trạch Đông và đồng đảng phải mở đường máu, vừa đánh vừa chạy trong một thời gian dài (nên có tên là "vạn lý trường chinh") và phải lao đao trong hai mươi năm dài.
Do đó, tuy lúc ấy đã nắm trọn quyền hành trong tay, HCM vẫn ra lệnh cho đàn em "Thà giết lầm hơn là bỏ sót".
Những người trí thức hợp tác với Việt Minh CS để chống Pháp cũng không nghĩ rằng họ Hồ nỡ lòng trở mặt vì ho. không hề biết vụ Tưởng Giới Thạch trở tay ở Thượng Hải và cũng không ngờ HCM âm mưu "thà phụ người hơn đê? người phụ" nên họ chỉ lo kháng chiến chống Pháp, tranh đấu cho độc lập xứ sở mà thôị Một số trí thức chỉ nghĩ rằng sự hy sinh của họ sẽ mang lại Tự Do, Công Bằng cho Tô? Quốc Việt Nam thân yêụ
Nhưng liên tiếp qua các cuộc đấu tố chính trị, đảng CSVN đã tàn sát hàng ngàn người đã từng cộng tác với Việt Minh, nhưng lại gian xảo cho rằng do "quần chúng tự động".
Giới trí thức từng cộng tác trong cuộc kháng chiến chống Pháp theo dõi và nhận thấy rằng chính sách và chủ trương của HCM thay đổi từng lúc, chẳng xác định được đâu là cách mạng, đâu là phản động nên họ rất hoang mang. Từ đó, một câu hỏi được đặt ra trong đầu óc trí thức :
- Một người, một đảng bá đạo như vậy làm sao có thể làm cách mạng vì dân vì nước ? Và họ nghĩ đến thuyết hoài nghi của Montaigne "Cái gì bên này là tà thuyết thì bên kia là chân lý".
Thậm chí nhiều đảng viên đảng CS cũng mang nhiều ấm ức trong lòng vì trước đây họ nghĩ rằng giới công nông cũng có thể trị quốc một cách công bình nhân đạo, bởi họ cũng là con ngườị Nhưng giờ đây, qua các cuộc đấu tố tắm máu, họ mới thấy rõ giới công nông chỉ là một công cụ cho một chế độ ngoại lai, mệnh danh là "công nông chuyên chính" giả hiệu.
Thủ đoạn của HCM không những đã lừa gạt được giới công nông mà còn lừa cả thành phần trí thức từng cộng tác đắc lực với họ Hồ. Qua phong trào "Trăm Hoa Đua Nở" HCM đãthủ tiêu, tẩy trừ rất nhiều trí thức đã từng đóng góp rất nhiều cho phong trào kháng chiến và đảng CSVN.
Các thanh niên được gởi sang Trung quốc, Đông-Âu để học tập kỹ thuật, lúc trở về chỉ được dùng một thời gian khi chuyên viên kỹ thuật còn thiếu thốn và vai trò của ho. còn cần thiết. Sau đó, họ lần lượt bị đào thải, vì theo CS, họ là con cái bọn trí thức cũ, đã hấp thụ tư tưởng thực dân đế quốc, khó "giác ngộ" chủ nghĩa Mác Xít.
HCM luôn luôn hoài nghi giới trí thức, coi trọng các tư tưởng Mát Xít vào bậc nhất và nhớ nằm lòng câu tuyên bố sau đây của Mao Trạch Đông :
- "Trí thức mà không giác ngộ chủ nghĩa Mát Xít, thì khôn g lợi ích bằng một cục phân" !
Thủ đoạn của HCM và đảng CSVN là dùng người theo từng giai đoạn, mỗi giai đoạn nhằm tiêu diệt một số kẻ thù theo thứ tự ưu tiên. Trong giai đoạn đầu, từ 1946 đến 1951, HCM vừa liên kết vừa ám hại các phần tử trong các đảng phái Quốc gia yêu nước.
Giai đoan thứ hai, HCM và đảng CSVN phát động phong trào "Cải Cách Ruộng Đất" (1952-1956) nhằm tiêu diệt các thành phần phong kiến, tư sản và nhằm đảo lộn các đạo lý Nho giáo cổ truyền Việt Nam.
Giai đoạn thứ ba (1957-1959), HCM và đảng CSVN phát động phong trào "Trăm Hoa Đua Nở" nhằm tiêu diệt các thành phần trí thức, tiểu tư sản, lãng mạn, ham thích kỹ thuật Tây phương, tự do ngôn luận, tự do cá nhân, v.v....
Giai đoạn cuối (từ 1960 trở về sau), sau khi đã thanh toán xong các đảng phái, địa chủ, trí thức, đạo giáo có tinh thần dân tộc, sau khi đã xung công các xí nghiệp, ruộng đất và tài sản của nhân dân, v.v... HCM ra lệnh phát động phong trào "Tìm Cái Mới".
Về phương diện kinh tế, tích cực đi vào con đường làm ăn tập thể do đảng CSVN lãnh đạo, nhà nước quản lý, cải thiện kỹ thuật bằng sức người, tập trung tài sản, lương thực vào tay nhà nước, chấm dứt lề lối sản xuất cá thể, v.v...
Về phương diện chính trị, xã hội và giáo dục, HCM và các cán bộ đảng CSVN bắt buộc mọi tầng lớp dân chúng và các trường học phải liên tục học tập tư tưởng Mát Xít, để tư tưởng Cộng sản thấm nhuần sâu xa vào từng con ngườị Ngoài ra người dân còn phải tích cực chống ý thức phong kiến, tư bản, thực dân, và phải đẩy mạnh phong trào "chống Mỹ cứu nước", nhằm chuẩn bi. xăm lăng thôn tính miền Nam Việt Nam.
Về quân sự, HCM ra lệnh cho các cán bộ đã tập kết ra Bắc năm 1954 xâm nhập vào Nam, kết hợp với các cơ sở VC nằm vùng, tổ chức các đơn vị võ trang và thành lập Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Đến giai đoạn cần chuẩn bị tham dự Hội nghị Ba Lê và để đánh lừa dư luận quốc tế, VC vội cho ra đời cái quái thai "Chính phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam". Thành phần chính phủ ma này được rút ra từ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Để xây dựng một thiên đường Cộngsản tại miền Bắc và gieo hạt giống độc vào miền Nam, HCM và đảng CSVN đặt nặng công tác tư tưởng và tuyên truyền chủ nghĩa Mát Xít vào hàng đầụ Tất cả các đảng viên cán bộ thuộc cấp trở nên những tín đồ duy vật cuồng tín, chỉ biết chu? nghĩa CS là hợp lý, văn minh tiến bộ nhất, nên dám hy sinh cho đảng.
Từ đó, HCM cổ động đảng viên và quần chúng "Biến căm thù thành hành động" bắt mọi người xung phong vào các công trường tập thể, vô bộ đội để bảo vệ miền Bắc và xâm nhập miền Nam với khẩu hiệu "Tất cả cho miền Nam ruột thịt". Sự kiện này là mồi lửa khiến cuộc chiến Nam-Bắc ngày càng bùng nổ lớn, gây cảnh "Nồi da xáo thịt - huynh đệ tương tàn" kéo dài trên đất nước VN. HCM đã thực hiện bao nhiêu thủ đoạn thảm khốc trên đây chỉ vì muốn làm tay sai đắc lực cho đế quốc CS Nga-Hoa.
Chủ nghĩa Mát Xít là một thứ độc dược ngoại lai mà HCM là tên thợ chích đắc lực. Nếu tiêm liều thuốc đầu quá mạnh, hay từ từ cách xa nhau, bệnh nhân có thể phản ứng hay không công hiệụ Nên HCM luôn luôn thay đổi hình thức : tiêm, uốn, xoa, v.v... nhưng trước sau chỉ dùng một thứ thuốc Mát Xít-Lêninít mà thôi.
Thợ chích HCM và đồng đảng luôn luôn đặt nặng công tác "Cải tạo tư tưởng". Mỗi khi đưa ra một chính sách, chủ trương, bắt buộc dân chúng phải thi hành, thì cán bộ đảng mở chiến dịch học tập, gọi là "Công tác tư tưởng". Trong kỳ Đại Hội Đảng lần III, năm 1960, tên bí thư đồ đệ của HCM đã giải thích :
- Công tác chính trị quyết định công tác tư tưởng, công tác tư tưởng phụ thuộc vào công tác chính trị. Hai công tác ấy không thể tách rời nhau.
Vì vậy, mỗi lần đảng thay đổi chính sách là phải mơ? chiến dịch "Cải tạo tư tưởng" từ đảng viên đến toàn dân. Người dân trong chế độ CSVN chỉ là học trò, đảng viên là "thầy", dù có nhiều "thầy" chưa học xong tiểu học, và nước CHXHCNVN là một trường học "cải tạo tư tưởng" khổng lồ.
Chương trình giáo dục, cải tạo tư tưởng chia ra hai cấp : một cho đảng viên và một cho toàn dân. Nhưng cấp nào thì cũng phải học qua chủ nghĩa Mát Xít, nhồi sọ con người thành một thứ nô lệ chỉ biết tôn thờ chủ nghĩa CS.
Tất cả những tư tưởng/đức tính truyền thống VN như "Thờ cha kính mẹ, yêu tổ tiên ông bà, yêu quê hương, tô? quốc" và những tư tưởng "phi CS" khác đều bị cho là "bệnh hoạn và phản động" cần phải chữa trị.
HCM và các cán bộ của Hồ đã kê nhiều "toa thuốc" liên tiếp để trị bọn "bệnh hoạn và phản động". Toa thuốc đầu tiên mang tên là "Yêu nước" (theo kiểu CS), là đảng có quyền tập trung tất cả "nhân tài và vật lực" để chống ngoại xâm, và các căn bệnh như "trí thức khoa bảng, tư sản lãng mạn, chủ nghĩa cá nhân, cường hào địa chủ, phong kiến, đạo giáo", v.v.... phải được tẩy trừ ra khỏi con người CS.
Toàn thể đảng viên, cán bộ và dân chúng đều phải bước qua ba giai đoạn kể trên, chỉ khác ở chổ người bước trước, kẻ đi sau mà thôi. Liều thuốc chích cho đảng viên dĩ nhiên là có liều lượng mạnh hơn liều thuốc của các cán bộ chưa gia nhập đảng, và liều thuốc của cán bộ nặng hơn của nhân dân. Cứ như thế, theo thứ tự mà HCM và đảng của Hồ đã đề ra, toàn thể đảng viên, cán bộ, nhân dân phải sắp hàng nối đuôi nhau, bước từ từ đến độ cuồng tín, chỉ còn biết cúi đầu tuân lệnh HCM và đảng CSVN.
Đồ đệ thứ nhất của HCM, gọi là Bí thư đảng, đã giải thích :
- Mục đích của cuộc cách mạng hiện nay là toàn thể nhân dân, đặc biệt là nhân dân lao động, phải quán triệt tư tưởng xã hội chủ nghĩa, phải gạt bỏ những nhân sinh quan và thế giới quan cũ kỹ và thay thế bằng chủ nghĩa Mát Xít. Chỉ có chủ nghĩa Mát xít mới có thể hướng dẫn nếp sống đạo đức cho cả nước, là cái khung chứa đựng tư tưởng tốt đẹp cho toàn thể dân tộc. Vì vậy, đó là nền tảng tạo dựng một đời sống hạnh phúc cho dân tộc ta.
Đoạn văn giáo điều trên đây chứng tỏ rằng chủ nghĩa Mát Xít là một thứ tôn giáo đã và đang tranh giành chổ đứng với các tôn giáo khác của nhân loại, vốn không chấp nhận chủ gnhĩa vô thần. Để đạt được tham vọng và chỉ tiêu đã đề ra cho con người Cộng sản, HCM và giáo hội Mát Xít của Hồ đã dùng hai biện pháp "Học tập kiểm thảo và Chỉnh huấn đấu tranh", bắt buộc các đảng viên CS và mọi người liên hệ, dù muốn hay không, cũng phải hy sinh cho đảng.
Từ lý luận và giáo điều độc đóan đó, HCM và đảng của Hồ đẩy mạnh cuộc xâm lăng miền Nam bằng hai phương cách song hành.
Về chính trị, đảng của Hồ đề ra khẩu hiệu "Tích cực chống đế quốc Mỹ và ngụy quyền Sàigòn" để giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước bằng chủ thuyết Mát Xít, chủ trương giải phóng con người, sống trong cảnh đại đồng, tự do bình đẳng và hạnh phúc DƯỚI SỰ KIỂM SOÁT, QUẢN LÝ VÀ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CSVN.
Cán bộ CS nằm vùng đã dùng khẩu hiệu trên đây để tuyên truyền lôi kéo những thành phần dân quê chất phác ít học tại miền Nam, hay những thành phần lưng chừng hoặc bất mãn với chế độ Tự do tại miền Nam, xây dựng và phát triển cơ sở dưới sự quản lý của cái gọi là "Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam".
Về quân sự, đảng CSVN đưa tất cả đảng viên, cán bộ và trẻ em tập kết ra Bắc từ năm 1954 trở về miền Nam. Họ có trách nhiệm vừa tuyên truyền vừa phá hoại chế độ Tự do và cuộc sống an lành của người dân miền Nam VN với khẩu hiệu "Trường kỳ kháng chiến - Giải phóng miền Nam VN".
Sau khi nền Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đổ và thay thế bằng nền Đệ Nhị Cộng Hòa, HCM tuyên bố "Nhất định ta sẽ thắng miền Nam" và vôi vã đề ra "Tình hình mới - Nhiệm vu. mới" phát động chiến dịch học tập toàn đảng, toàn dân miền Bắc và ở một số vùng quê hẻo lánh tại miền Nam. Bài học tổng quát bắt đầu bằng một bản báo cáo tình hình cả nước, những "lớn mạnh về mọi mặt" tại miền Bắc và những "suy tàn sụp đổ" tại miền Nam và nhất là nghe báo tin những thắng lợi về quân sự và ngoại giao, v.v... nhằm lừa bịp những kẻ ít học tại những vùng xôi đậu, nhằm nâng cao tinh thần đảng viên, và tạo sức ép buộc mọi người phải cúi đầu phục vụ cho đảng và nhà nước Cộng sản. Cán bộ, bộ đội miền Bắc được đưa vào xâm lăng miền Nam mỗi ngày một đông để tuyên truyền, phá hoại và sẵn sàng "Giải phóng miền Nam".
*
***
*
Hồ Chí Minh, tay sai của Cộng sản quốc tế (8/8) Binh Minh428
(trích biên khảo "Bộ Mặt Thật của HCM" của N. Thuyên)
Đề tài thứ hai được cán bộ đảng trình bày là "Tầm quan trọng và tinh thần bất vụ lợi" của các nước XHCN anh em, đứng đầu là Liên xô và Trung quốc, hai nước đàn anh đã tích cực viện trợ cho đảng CSVN có đủ tiềm năng để xâm lược miền Nam Việt Nam. Cán bộ VC so sánh nền kinh tế CS và nền kinh tế tư bản, điển hình là sức mạnh quân sư. của Liên xô và tài lực của Trung cộng, không một nước tư bản nào có thể hơn được và kết luận rằng Mỹ chỉ là "con cọp giấy". Cán bộ tuyên truyền VC còn nêu vài thí du. nho nhỏ như... hiện nay, không có một công ty tư bản nào có đủ tiền mua số lòng lợn do Mậu Dịch quốc doanh Trung quốc thu nhập trong một năm, v.v....
Để gây tin tưởng về sức mạnh của khối CS quốc tế nói chung và của đảng CSVN nói riêng, tài liệu học tập nhồi so. lúc bấy giờ được HCM và các đồ đệ cốt cán "phân tích kỹ lưỡng" tình hình thế giới và tình hình trong nước và kết luận rằng tình hình rất thau^.n lợi cho công cuộc "giải phóng miền Nam", vì các "Chế độ tư bản đã đến ngày tàn lụi". HCM và các cán bộ của Hồ cho rằng đế quốc Mỹ đang bị nhân dân thế giới lên án gắt gao nên không thể nào tồn tại được. Cho nên, thắng lợi nhất định phải về phe ta - chỉ còn là vấn đề thời gian.
Muốn đạt đến thắng lợi hoàn toàn, đảng, chính phủ và nhân dân phải ra sức thực hiện những nhiệm vụ khẩn cấp sau đây :
1. Củng cố chế độ dân chủ nhân dân chuyên chính tại miền Bắc hết sức vững mạnh, nghĩa là dân chủ đối với nhân dân đã giác ngộ XHCN, và chuyên chính đối với kẻ thù của đảng.Chính thể hiện nay vừa dân chủ vừa chuyên chính, nghĩa là chỉ dân chủ đối với những ai ngoan ngoản với đảng và chuyên chính đối với những kẻ thù của đảng. Có dân chủ với nhân dân thì mới tập hợp được sức mạnh, có chuyên chính với kẻ thù thì mới bảo vệ được chế độ, đó là một chế độ "tiến bộ nhấtcủa nhân loại".
2. Tăng cường đoàn kết toàn dân cả nước, tạo thêm sức mạnh về chính trị lẫn quân sự, thanh toán những phần tử phản động, nhất là trong guồng máy "Ngụy quân ngụy quyền miền Nam", lần lượt thay thế giai cấp vô sản trong chính quyền miền Nam, nghĩa là phải tìm cách gài các cán bộ CS vào các hàng ngũ quân đội, hay các cơ cấu hành chánh của nước VNCH để lũng đoạn về mọi mặt.
3. Liên kết mật thiết với các nước trong khối XHCN để nhận viện trợ và nhờ họ tuyên truyền "chính nghĩa giải phóng dân tộc và yêu chuộng hòa bình của nhân dân VN" đối với nhân dân các nước tư bản yêu chuộng tự do và công lý (ngụ ý yêu cầu họ tuyên truyền, xuyên tạc, đầu độc nhân dân các nước Tự Do có viện trợ hay tham chiến tại miền Nam VN để đòi hỏi chính phủ họ phải rút lui hay chấm dứt viện trợ). Từ các thủ đoạn và chiêu bài thâm độc kể trên, HCM đẩy hàng triệu thanh niên miền Bắc vào Nam để chuẩn bị nổi dậy cướp chính quyền, đồng thời lừa bịp dư luận quốc tế, nhất là các thành phần phản chiến tại Hoa Kỳ, để ho. đòi hỏi chính phủ Mỹ phải chấm dứt tham chiến tại VN. Sư. việc đã gây tác động mạnh, làm cho các chính giới Hoa Kỳ quyết định phải "leo thang chiến tranh" để sớm chấm dứt cuộc chiến.
Trong thời gian này, HCM bị bệnh nặng. Trung ương đảng CSVN quyết định "tổng khởi nghĩa" vào dịp Tết Mậu Thân 1968, hy vọng tạo được chiến thắng trước khi họ Hồ nhắm mắt, trở về với địa ngục Cộng sản.
Nhưng cuộc "tổng khởi nghĩa" thất bại hoàn toàn, nướng gần nửa triệu cán bộ và bộ đội tại miền Nam VN, làm cho họ Hồ buồn rầu, bệnh tình thêm trầm trọng. HCM ra lệnh cách chức Võ Nguyên Giáp, đưa Văn Tiến Dũng lên làm Tư lệnh Bộ đội Bắc Việt.
Năm sau HCM chết (1969), để lại những lời di chúc thâm độc và sắt máu, dặn dò đám đồ đệ hãy tiếp tục con đường làm tay sai cho CS quốc tế bằng võ lực tàn ác hơn, táo bạo hơn như cuộc xâm lăng tràn qua sông Bến Hải, tấn công hai tỉnh địa đầu của miền Nam VN năm 1972, chiếm dọc Quốc lộ 1 và vài thị trấn của hai tỉnh Quảng Trị -Thừa Thiên, tàn sát dân lành qua những hình thức rất dã man như chôn sống tập thể, pháo kích bừa bãi vào những đoàn người di tản trên Đại Lộ Kinh Hoàng, giết hại gần nửa triệu người, phần đông là phụ nữ và trẻ em, trước khi rút lui vì bị Quân Lực VNCH phản công mãnh liệt.
Trong cuộc xâm lăng năm 1972, còn được gọi là "Mùa Hè Đo? Lửa", Cộng quân đã bỏ xác không ít trong các trận chiến tại "Bình Long Anh Dũng", "Kontum Vùng Dậy" và "Trị Thiên Oai Hùng" mà người dân miền Nam VN luôn luôn ghi nhớ sự tàn ác vô tiền khoáng hậu của bộ đội CSVN.
Thủ đọan của HCM, từ mộng làm quan cho thực dân Pháp đến làm tay sai cho đế quốc CS, đã phơi bày bộ mặt phản dân hại nước, ma đầu giáo chủ số một trong lịch sử VN và nhân loạị Nhưng vì quá gian manh xảo quyệt, HCM đã che đậy được tội diệt chủng dã man tàn ác dưới chiêu bài đấu tranh giai cấp, bằng cách thủ tiêu lần các nhà ái quốc VN, bằng cải tạo tư tư tưởng, v.v...
Sự thật là HCM đã giết nhiều triệu người Việt Nam đê? thực hiện mưu đồ độc tài đảng trị, biến toàn dân VN thành nô lệ của chủ nghĩa CS, biến đất nước VN thành một trại tù khổng lồ mà chủ nhân ông là Đế Quốc Cộng sản quốc tế, và Hồ Chí Minh là một tên cai tù ngoan ngoản. Chẳng những thế, HCM còn đầu độc các thế hệ trẻ bằng chủ thuyết Mát Xít ngoại lai ác độc, và xóa bỏ nền đạo lý truyền thống trên thuận dưới hòa đầy ấp tình người mà tổ tiên chúng ta đã dầy công gây dựng.
Thủ đoạn của HCM còn ác độc hơn thủ đoạn của Hitler thời Đức Quốc Xã trước kiạ Hitler ra lệnh lùa dân Do Thái vào các phòng hơi ngạt và Hitler dám nhận trách nhiệm trước công luận quốc tế. Gần đây, Pol Pot đã chủ trương tàn sát dân Kampuchea nhưng chỉ làm được trong một thời gian ngắn. Trái lại, HCM và đảng CSVN đã có nhiều thủ đoạn để giết dân VN kinh khủng hơn, lâu dài hơn, dã man hơn, kéo dài hơn nửa thế kỷ qua, còn ghi lại những mưu lược cho các đồ đệ thế hệ sau tiếp tục đày đọa dân tộc Việt Nam bằng những chính sách bần cùng hóa, làm cho dân càng ngày càng đói khổ, suốt đời chỉ lo chạy theo miếng ăn, không còn hơi sức đâu mà nghĩ tới việc đấu tranh cho dân chủ, tư. do, no ấm.
Sau khi đã làm chủ cả nước, đảng CSVN đã mở ra nhiều trại tù, , bành trướng chiến tranh xâm lược qua các nước láng giềng, bán dân làm nô lệ, đẩy dân lên các vùng "kinh tế mới" rừng thiêng nước độc, v.v... làm cho mọi người phải sống trong cảnh phập phồng không biết sống nay chết mai như thế nào, nhất là các giới quân nhân, công chức và gia đình liên hệ với chế độ VNCH.
Vì thế, họ phải liều mình vượt biên vượt biển để tìm tự do, và hơn một triệu người Việt đã vùi thân dưới đáy biển sâụ Bao nhiêu triệu người VN lại chết oan uổng chỉ vì các đồ đệ của HCM quyết tâm thực hiện di chúc của họ Hồ trước khi cùng HCM đi xuống địa ngục.
vendredi 15 juin 2007
Inscription à :
Publier les commentaires (Atom)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire