jeudi 14 juin 2007

Hiệp định sơ bộ Xuân Bính Tuất

Hiệp định sơ bộ Xuân Bính Tuất
Minh Võ

Jean Sainteny, người ký với Hồ Chí Minh hiệp định sơ bộ Xuân Bính Tuất

Mùa Xuân năm Bính Tuất, cách nay đúng một chu kỳ 60 năm theo âm lịch, đã có 2 hiệp ước quan trọng liên quan đến vận mệnh Việt Nam. Thứ nhất là hiệp ước Pháp Hoa ký ngày 28/2/1946, theo đó Trung Hoa thừa nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương. Đổi lại, Pháp bỏ tô giới ở Thượng Hải, Hán Khẩu, Quảng Đông, bán lại đường hoả xa Vân Nam, và sửa đổi quy chế người Hoa ở Đông Dương.

Với hiệp ước này, quân Pháp vào Bắc Việt qua hải cảng Hải Phòng, thay thế quân Trung Hoa làm nhiệm vụ tiếp quản Đông Dương, theo quy định của hiệp ước Potsdam ký kết gũa các đại cường sau thế chiến 2, bất chấp cái gọi là tuyên ngôn Độc Lập và chính phủ “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa”. Và như vậy chiến tranh chắc chắn bùng nổ ngay, nếu không có một thoả thuận giữa Pháp và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

Vì thế mới có hiệp định sơ bộ (convention préléminaire) mồng 6 tháng 3 năm 1946 (đầu năm Bính Tuất). Hiệp định này đã được ký kết một cách hết sức khẩn trương, sau nhiều tháng thương thuyết cam go giữa Hồ Chí Minh và đại diện Pháp quốc là Jean Sainteny. Cuộc thương thuyết kéo dài gần 6 tháng, sao lại nói là khẩn trương? Kéo dài vì hai bên đều kỳ kèo bớt một thêm hai, bên nào cũng muốn lợi về phần mình. Còn khẩn trương vì tính từ khi hiệp ước Pháp Hoa được ký (ngày 28/2/46) cho đến khi hiệp định sơ bộ ra đời chỉ vẻn vẹn có 1 tuần. Nếu kéo dài thêm nữa, khó tránh chiến tranh, là điều lúc ấy Hồ Chí Minh chưa sẵn sàng.

Hiệp định đó đã mang chữ ký của 2 người, đồng thời có thêm chữ ký của một lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng là Vũ Hồng Khanh, với tư cách là “đại biểu đặc biệt của hội đồng bộ trưởng” (chính phủ Liên Hiệp). Ông Khanh, ký vì mắc mưu của cáo già HCM, sau này bị các đồng chí phê bình và trở thành nguồn chia rẽ giữa Quốc Dân đảng trong một thời gian.

Hiệp định có 3 điều khoản và một phụ ước. Hai đều chính yếu trong 3 điều khoản này là:

Thứ nhất: Chính phủ Pháp nhìn nhận Việt Nam là một nước tự do có chính phủ riêng, nghị viện riêng và tài chính riêng trong Liên Bang Đông Dương và Liên Hiệp Pháp.

Thứ hai: Chính phủ Việt Nam ưng thuận sẵn sàng đón rước quân đội Pháp đến thay thế quân đội Trung Hoa, theo hiệp ước quốc tế quy định.

Mặc dầu bên cạnh chữ ký của Hồ Chí Minh, Cộng Sản, còn có chữ ký của một lãnh tụ Việt Quốc, các đảng phái quốc gia lúc ấy cực lực chống đối hiệp định này, vì nó chỉ công nhận VN là một nước tự do trong liên hiệp Pháp, chứ không phải độc lập hoàn toàn. Nó cũng không xác định quyền VN có quân đội riêng và chính sách ngoại giao độc lập. Nhưng bút sa gà chết, Việt Nam Quốc Dân Đảng há miệng mắc quai.

Đó là cái tài xảo trá của ông Hồ. Ông ta đã bằng mọi cách cố đạt được một thoả hiệp với người Pháp để đuổi khéo quân đội Trung Hoa Quốc Gia, lúc ấy quân số lên đến 200.000 do các tướng Tiêu Văn và Lư Hán cầm đầu, và là lực lượng triệt để ủng hộ các đảng quốc gia. Như vậy cũng chẳng khác gì chặt bỏ một hậu thuẫn mạnh của phe quốc gia. Từ đó ông Hồ có thể dùng chính quân đội Pháp để diệt các đảng quốc gia, là đối thủ của ông ta.

Mục đích thứ hai mà ông Hồ đạt được với hiệp định này là được một cường quốc Tây Phương gián tiếp công nhận chính phủ của ông ta là chính phủ duy nhất của Việt Nam.

Ngày nay gẫm lại bài học quá khứ, các đảng phái quốc gia không khỏi buồn là chẳng những mình đã mắc mưu CS, đứng chung trong chính phủ Liên Hiệp để ông Hồ chứng tỏ được với nhân dân rằng ông ta tạo được một sự đoàn kết quốc gia, mà còn để cho một lãnh tụ của mình cùng ký với ông Hồ một hiệp định để củng cố thêm uy tín của ông ta trước quốc tế.

Để giúp độc giả biết thêm về nhà ngoại giao Pháp Jean Saiteny và những liên hệ và cảm tình của ông ta dành cho Hồ Chí Minh cũng như ảnh hưởng của hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng 3 năm Bính Tuất, chúng tôi xin phân tích, phê phán tác phẩm FACE À HỒ CHÍ MINH của ông ta, đồng thời (trong phần chú thích) cũng sẽ nhắc lại sơ qua một tác phẩm khác ông ta viết trước đó là HISTOIRE D’UNE PAIX MANQUÉE.

Sau khi dự đám tang Hồ Chí Minh ñaàu tháng 9 năm 1969 với tư cách nhà ngoại giao Tây phương duy nhất, Jean Sainteny bắt đầu viết cuốn Face à Ho Chi Minh (Éditions Seghers, Paris, 1970).

Cuốn sách được Herma Briffault dịch ra Anh ngữ với tựa đề Hồ Chí Minh and his Việt Nam, a personal memoir được Cowles Book Company, Inc. xuất bản tại Chicago, Hoa Kỳ năm 1972. Phần trích dẫn ở đây là theo bản Anh ngữ.

Trước đó 5 năm, Sainteny đã viết một tác phẩm đáng chú ý khác là Histoire d’une paix manquée – Chuyện về một nền hòa bình bị bỏ lỡ – Fayard xuất bản 1967.

Theo nhà xuất bản, Sainteny là nhà ngoại giao Tây phương biết rõ nhất về Hồ Chí Minh. Ông là người đã gặp Hồ Chí Minh nhiều lần, là người thương thuyết với Hồ Chí Minh ròng rã 6 tháng để đi đến thoả ước 6-3-1946 mang chữ ký của ông.

Khi Hồ Chí Minh tới Pháp theo dõi cuộc thương thuyết Fontainebleau giữa hai phái đoàn Việt Pháp, tác giả cũng là người nhận lệnh của chính phủ Pháp đón tiếp và chu cấp mọi tiện nghi. Sau hiệp định Genève 1954, Sainteny là sứ giả Pháp giao dịch với miền Bắc để tìm cách duy trì một số cơ sở văn hóa, kinh tế tại đây, nhưng không thành công.

Sainteny ghi rõ ông không có tham vọng viết sử mà chỉ trình bày một số sự việc do ông biết về Hồ Chí Minh như một chứng nhân để cung cấp tài liệu sống và kinh nghiệm cá nhân cho các nhà chép sử sau này.

Ngay trong lời nói đầu, tác giả không che giấu cảm tình của mình qua lời diễn tả đã muốn rơi lệ vào lúc nghiêng mình bên quan tài Hồ Chí Minh.

Sainteny không phủ nhận ảnh hưởng của cộng sản đối với Hồ Chí Minh và cho biết ngay khi mới tới Pháp, Hồ Chí Minh đã say mê đọc Marx, kể cả tác phẩm đồ sộ Tư Bản Luận. “Chẳng bao lâu nó đã là cuốn sách gối đầu giường, người bạn ban đêm của ông Hồ. Ông ta hoàn toàn gắn bó với chủ nghĩa cộng sản. Ta có thể nói điều này một cách chắc chắn.”(1)

Nhưng tác giả viết: “Hồ cũng như Mao đã trở thành cộng sản ngay từ năm 1917. Tuy nhiên đối với ông ta, cộng sản ban đầu phần lớn chỉ là phương tiện để đạt mục đích dành độc lập cho tổ quốc. Không biết bao lần người ta đã hỏi tôi “ông Hồ quốc gia hay cộng sản?” Câu trả lời của tôi luôn vẫn thế: “Cả hai”. (2)

Tuy nhiên, tác giả biết rõ nhiệm vụ mà Quốc Tế Cộng Sản đã trao cho ông Hồ Chí Minh và khẳng định: “Tại Quảng Đông, ông Hồ coi phòng báo chí của tòa lãnh sự Liên Xô, nhưng sứ mạng chính của ông là chuẩn bị tuyên truyền và hành động cho cộng sản ở Đông Dương”. (3) Ông còn ghi năm 1928, Hồ Chí Minh tới Thái Lan phụ trách 2 loại công tác trên của cộng sản ở vùng Đông Nam Á, Mã Lai Á, Thái Lan, Miến Điện và dĩ nhiên Đông Dương.

Trang 28, tác giả cho biết Hồ Chí Minh đã được giao phụ trách huấn luyện cho quân Quốc Dân Đảng Trung Quốc về du kích chiến vào năm 1938, khi mà hai phe Quốc - Cộng Trung Hoa lại một lần nữa tạm liên hiệp để chống Nhật xâm lăng.

Sainteny trưng dẫn và đồng ý với phát biểu của “đồng chí Ducroux”: “Tôi không phủ nhận ông ta là người theo chủ nghĩa quốc tế (cộng sản) chân thành và là nhà cách mạng đích thực, nhưng Việt Nam luôn chiếm vị trí hàng đầu đối với ông –...I don’t deny that he was a sincere internationalist and a true revolutionary, but Việt Nam always took first place for him”. (4)

Tác giả dành riêng 15 trang của chương 6 nói về những cuộc đàm thoại giữa mình với Hồ Chí Minh với lời mở đầu: “Ngay khi vừa gặp lần đầu ngày 15-10-1945, tôi cũng như tướng Allessandri và Léon Pignon, đều tin chắc Hồ Chí Minh là một nhân vật thượng thặng.”

Qua hàng loạt hội kiến sau đó kéo dài 6 tháng, tác giả đã có một nhận định tổng quát về con người, về lập trường cũng như chiến lược sách lược đấu tranh bằng thương thuyết của Hồ Chí Minh. Đại khái trước tình hình khó khăn do sự hiện diện của quân đội Trung Hoa Dân Quốc tại miền Bắc vĩ tuyến 16 mang theo về các đảng quốc gia gồm Đại Việt, Việt Cách và nhất là Việt Quốc, Hồ Chí Minh đã phải khéo léo tranh thủ cảm tình của người Pháp – Đã rõ là ông Hồ không thể loại bỏ mối đe dọa từ phía Trung Hoa mà không có sự ủng hộ của Pháp.

Về điểm này quyền lợi của hai bên Việt Pháp gặp nhau. (5) Tác giả cho biết không hề ảo tưởng là Hồ Chí Minh nhượng bộ nhiều, vì ông ta có những điểm cần phải bảo vệ một cách quyết liệt và viết tiếp: “Khi những mưu tính của ông ta hay đồng chí của ông ta, hoặc chính bản thân ông ta bị đe dọa, ông ta sẽ không do dự dùng những cách tàn bạo. Về phương diện này, ông ta hoàn toàn thuộc về cái thứ châu Á quá nhiều mâu thuẫn, ở đó người ta áp dụng những hình thức tra tấn cực hình tinh vi nhất tiếp theo những nghi thức xã giao rất ư ngọt ngào” (6).

Liền sau đó, Sainteny cho thấy sự uyển chuyển của Hồ Chí Minh khi ứng phó với tình thế khác hẳn thái độ cố chấp cứng ngắc của những người Việt Nam đấu tranh yêu nước lúc đó: “Để đạt mục đích đối với chúng tôi, Hồ Chí Minh đủ sáng suốt để không đòi hỏi quá nhiều như một số đối thủ của ông ta. Trong khi những người này đòi độc lập hoàn toàn và tức khắc như điều kiện tiên quyết để thương thuyết thì Hồ Chí Minh tuyên bố sẵn sàng bằng lòng với sự độc lập tương đối, chấp nhận một thoả hiệp hòa nhã với nước Pháp để rồi chẳng bao lâu sau nước ông sẽ được độc lập hoàn toàn.”

Tác giả tỏ ra tán đồng sự uyển chuyển này và nghĩ rằng Hồ Chí Minh vẫn không quên mục tiêu giành độc lập cho đất nước: “Tại sao chúng ta lại phải nghi ngờ lòng thành thực của ông ta? Ông ta đã chờ 35 năm, và có thể chờ thêm dăm năm nữa có sao. Kiên trì là đức tính của Á Đông mà.” (7)

Khi nói về đòi hỏi quá nhiều của những người quốc gia “đối thủ của Hồ Chí Minh”, có lẽ tác giả nhớ lại Nguyễn Tường Tam mà ông gặp qua trung gian một sĩ quan Việt tên Phác, khi mới đến Côn Minh để đảm nhận trọng trách “Phái Bộ 5”. Nguyễn Tường Tam đã cảnh cáo người Pháp về quyết tâm kinh khủng của đồng bào ông là phải thoát ngay ách đô hộ của người Pháp. Còn Hồ Chí Minh sau đó đã gửi cho phái bộ này bức điện văn 5 điểm trong đó có điểm 2 như sau:“Nền độc lập phải được trao trả trong thời hạn 5 năm hay tối đa 10 năm” (8)

Chương 10, nói về tôn giáo, Sainteny gần như không mảy may nghi ngờ về việc Hồ Chí Minh đóng kịch khi nói đến Thượng Đế một cách kính cẩn. Trong khi tạm trú ở Biarritz để chờ được đón tiếp chính thức bởi chính phủ mới của Pháp lúc ấy chưa lập xong, Hồ Chí Minh đã đề nghị được đi thăm viếng Lộ Đức (9) và “đã tỏ ra rất cung kính và thích thú khi được Đức Cha Théas đón tiếp tại đây.” (10)

Sainteny cũng nhắc lại lá thư riêng của Hồ Chí Minh gửi cho mình ngày 24/2/1947, trong đó Hồ Chí Minh hy vọng Thượng Đế sẽ giúp hai người thành công trong nỗ lực mưu tìm hòa bình. Tác giả viết: “Ông Hồ xin Thượng Đế chứng giám cho là cả hai chúng tôi không ai có trách nhiệm về cuộc chiến đã tàn phá đất nước ông từ ngày 19/12/1946.”

Sainteny ghi lại ý nghĩ của mình là Hồ Chí Minh không cần giả vờ nhắc đến Thượng Đế trong dịp này.“Để đánh lừa ai? Chắc chắn không phải tôi. Và, ông ta cũng biết chắc chắn là tôi không công bố lá thư đó.”

Sainteny hoàn toàn đúng khi nghĩ Hồ Chí Minh biết chắc chắn sẽ không có việc công bố lá thư và vì thế Hồ Chí Minh sẽ không cần giả vờ để đánh lừa bất kỳ ai.

Nhưng khi xác quyết Hồ Chí Minh không nhắm đánh lừa mình – chắc chắn không phải tôi – Sainteny đã chứng tỏ là chủ quan tới mức lầm lạc. Đặt lên bàn cân việc chinh phục lòng tin của một người như Sainteny và chinh phục lòng tin của hàng trăm, thậm chí hàng ngàn người Pháp khác không ở cương vị của Sainteny lúc đó thì vấn đề đã dễ dàng sáng tỏ. Sainteny không lưu tâm so sánh và còn nhắc thêm một câu do Hồ Chí Minh viết trong di chúc về việc ông ta sẽ đi gặp Các Mác và Lênin, để cho rằng Hồ Chí Minh thực sự tin ở đời sau. (!)

Thực ra, cảm tình mà Sainteny dành cho Hồ Chí Minh đến mức tin rằng mình không bị gạt hoàn toàn không gây ngạc nhiên khi người ta biết về cung cách giao tiếp của Hồ Chí Minh và biết rõ Sainteny là người có nhiều dịp đặc biệt cùng Hồ Chí Minh gặp gỡ kể từ 1945. Lần cuối Sainteny gặp Hồ Chí Minh là tháng 7-1966. Lần gặp này, Sainteny cho biết, Hồ Chí Minh rất mãn nguyện vì được đọc thư của tướng De Gaulle là người mà dịp qua Pháp 1946, Hồ Chí Minh rất muốn gặp nhưng không được.

Sainteny kể lại là Hồ Chí Minh cười thoải mái khi đọc đến câu De Gaulle “giới thiệu” Sainteny. – “Giới thiệu ông với tôi! Đâu có cần. Chúng ta đã biết nhau nhiều mà... Đừng gọi tôi là chủ tịch nữa. Giữa chúng ta mấy tiếng đó thật buồn cười!...”

Cung cách tiếp xúc với lời lẽ thân mật đó đủ tạo một ấn tượng tốt với người đối diện và tất nhiên dễ chinh phục sự tin tưởng về các vấn đề được nêu ra.

Trong tương quan với Hồ Chí Minh, Sainteny còn được dành một ưu tiên đặc biệt là bất cứ lúc nào cần đều có thể gặp mặt. Sự biệt đãi này khiến Sainteny luôn hãnh diện vì được Hồ Chí Minh coi như bạn. Suốt nhiều năm qua lại Hà Nội, chỉ một lần duy nhất Sainteny không được Hồ Chí Minh đích thân ra đón. Đó là lần Sainteny tới với tư cách đại diện toàn quyền Pháp tại miền Bắc Việt Nam. Lần đó, Sainteny hơi cảm thấy buồn, nhưng về sau được biết là Hồ Chí Minh đang đau nên hoàn toàn an tâm về tình bạn đã có.

Với tư cách nhà ngoại giao lão luyện và ở cương vị đặc biệt để nắm vững nhiều biến cố, Sainteny đã đề cập tới nhiều hành vi nham hiểm, tàn ác mà Hồ Chí Minh và các đồng chí theo đuổi đối với kiều dân Pháp tại Việt Nam. Chính Sainteny đã là nạn nhân và bị thương nặng ngay đêm 19-12-1946. (11) Sainteny cũng nắm vững cả việc Hồ Chí Minh mượn tay Pháp tiêu diệt các đảng đối lập. Nhưng tình cảm bạn bè đã dập tắt mọi ý nghĩ ngờ vực chê trách và đôi khi còn thúc đẩy Sainteny bày tỏ sự tán trợ.

Trong lần gặp gỡ cuối cùng, hai người đề cập tới cuộc chiến khốc liệt đang diễn ra tại miền Nam và mức độ oanh tạc leo thang của Mỹ tại miền Bắc. Hồ Chí Minh tỏ ra rất tự tin, tâm sự với Sainteny rằng “nước Mỹ có thể xóa sạch thành phố này cũng như nhiều thành phố khác của Việt Nam nhưng không làm chúng tôi lay chuyển đâu. Ông biết đó, chúng tôi đã có kinh nghiệm và ông đã thấy chiến cuộc kết thúc ra sao.”

Sainteny cho là Hồ Chí Minh có ý nhắc tới trận Điện Biên Phủ nhưng ông không cảm thấy mỉa mai chua xót và cũng không nghĩ rằng Hồ Chí Minh có ý khoe khoang hay châm chọc. (12)

Ý nghĩ không thay đổi của Sainteny là trách cứ các chính phủ Pháp không chịu trao trả độc lập cho Việt Nam, như người Anh đã làm với Ấn Độ năm 1948.

Sainteny xác định không có tham vọng làm công việc chép sử nên ông thoải mái phơi trải cảm xúc cá nhân. Với tư cách nhà ngoại giao từng một thời có mặt tại Việt Nam, ông cung cấp khá nhiều tài liệu về những biến cố đã xẩy ra. Riêng về xu hướng tư tưởng của Hồ Chí Minh, ít nhất Sainteny cũng xác định một điều là Hồ Chí Minh say mê chủ nghĩa Cộng Sản, chọn Tư Bản Luận làm sách gối đầu giường và đọc Karl Marx một cách ngấu nghiến. (13)

Cảm giác còn lại rõ rệt sau khi đọc tác phẩm của Sainteny là sức mạnh lấn át của tình cảm so với nhận thức hiện ra thật rõ ràng, kể cả với những người thường xuyên phải vận dụng lý trí.


© DCVOnline



--------------------------------------------------------------------------------

(1) - Hồ Chí Minh and Vietnam, a personal memoire, trang 18.
(2) - (3) - (4) SĐD các tr. 20, 23, 34
(5) SĐD tr. 55, nguyên văn bản tiếng Anh: It is clear that HCM could not eliminate the Chinese menace without French support. On this point our interests coincided.
(6) - (7) SĐD tr. 57.
(8) Histoire d’une paix manquée, Fayard, Paris, 1967, tr. 66- 68.
(9) Một thánh địa ở Tây Nam nước Pháp, nơi Đức Bà Maria, năm 1858 đã hiện ra với một thiếu nữ quê mùa (sau được Giáo Hội phong thánh là thánh Bernadette) và làm nhiều phép lạ.
(10) SĐD tr. 132.
(11) Trang cuối cùng tác phẩm Histoire d’une paix manquée (Fayard 1967, tr. 147), Sainteny viết: “20 giờ đúng. Thành phố chìm sâu trong im lặng. Đồng hồ bệnh viện Yersin điểm 8 tiếng trầm chậm. Tôi bảo mấy cộng sự viên: “Hình như chưa phải tối nay đâu. Tôi đi về nhà cái đã.” Tôi vừa vào trong xe thì nghe tiếng nổ bụp, và bỗng cả thành phố chìm trong bóng tối. Nhà máy đèn trung ương vừa phát nổ. Lúc ấy là đúng 20 giờ 04...đêm 19-12-1946, cũng y hệt đêm 9-3-1945 cũng đúng 20 giờ 04, trong cùng một giờ, cùng một hoàn cảnh, dân Việt Nam, những học trò đời đời ngoan ngoãn đã thực hành bài học mà những ông thầy Nhật Bổn đã dậy họ 21 tháng trước đó. Đàng khác, một vài kẻ trong số những ông thầy đó giờ đây cũng ở đâu đó không xa.” Những phát súng đầu tiên như pháo rang xé toang bóng đêm bao trùm thành phố, chôn vùi những cố gắng và hy vọng của chúng ta.”
Và hai trang sau là phần viết tiếp của nhà xuất bản đã cho biết về tình trạng của tác giả: “Chiếc xe có gắn đại liên chở Sainteny đã cán mìn cỡ nặng, bắn tung lên, đốn ngả cây cối bên đường và biến mặt tiền của một cửa hiệu thành tro bụi. Nó bốc cháy trong cơn mưa lựu đạn.... Sainteny cố thoát ra được khỏi xe. Các người khác cùng lần lượt ra được. Nhưng kẻ thì hấp hối, đầu tựa vào đầu gối tác giả, người thì toàn thân như bó đuốc, phải chữa trị nhiều tháng trong bệnh viện. Riêng tác giả bị thương nặng ở lưng và hông phải nát bấy. Ông được giải phẫu ngay đêm đó và chỉ ít ngày sau đã cố trở lại nhiệm sở bằng xe cứu thương! ....
(12) SĐD tr. 164.
(13) Histoire d’une paix manquée tr. 179, nguyên văn: Il dévore Karl Marx.


07-03-2007
Minh Võ


(Nguồn: http://danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=article&sid=3061)

Aucun commentaire: