HỒ CHÍ MINH: TỪ MỘNG LÀM QUAN ĐẾN MỘT KẺ HOẠT ĐẦU CHÍNH TRỊ
Thưa qúy vị,
Tôi định viết một bài để phân tích những lời của ông Bùi Tín nhận xét về ông HCM, nhưng vì thời gian không cho phép, cho nên tôi đăng lại bài tôi đã viết về HCM hơn một năm về trước, để quý vị trao đổi cái nhìn về HCM của thế hệ tương đối trẻ, không có liên hệ đến cuộc chiến hai miền, dù đã sống và lớn lên dưới thời CS sau 1975:
Kính,
Vân Việt Hà
HỒ CHÍ MINH: TỪ MỘNG LÀM QUAN ĐẾN MỘT KẺ HOẠT ĐẦU CHÍNH TRỊ
Vân Việt Hà
Viết về ông Hồ Chí Minh (HCM) đã có vô số sách vở, bài viết về ông ta, kẻ tung người hứng trong đảng CSVN, và cũng có rất nhiều người đả kích, mỉa mai từ những triết gia ngoại hạng cho đến người dân đen chân lấm tay bùn tại Việt nam qua văn học truyền miệng dân dã. Tuy nhiên, hãy trả lại sự thật cho sự thật. Người viết không có ý định và khả năng viết lại lịch sử, mà chỉ mạn phép so sánh những ý kiến, bài viết trái ngược từ mọi phía, hòng đem lại một cái nhìn trung thực về cuộc sống cá nhân, cũng như cuộc đời hoạt động chính trị của ông Hồ, một người đã gây ra những ảnh hưởng không ít đến cuộc sống của hàng triệu dân Việt gần ba phần tư kế kỷ nay.
Trước hết nói về ngày tháng năm sinh của ông Hồ, cho đến giờ phút này không có bất cứ một tài liệu chính thức nào chứng minh được ông Hồ sinh ngày 19 tháng 05 năm 1890 (?) như tài liệu của đảng CSVN tuyên bố. Bởi vì chính ông Hồ khi viết đơn xin nhập học trường thuộc địa Pháp ngày 15 tháng 09 năm 1911 thì khai là sinh năm 1892 (?), nhưng khi làm giấy thông hành từ Pháp qua Nga lại khai là sinh năm 1894 (?). Vậy thì đâu mới là ngày sinh thật của ông Hồ vẫn là một nghi vấn mà các nhà sử học sau này cần làm sáng tỏ.
Về đời tư của ông HCM, đảng CSVN luôn đánh bóng ông Hồ như một Thánh nhân, hy sinh cả đời mình vì nước vì non, không vợ không con. Trên thực tế ông Hồ đã từng có vợ chính thức là bà Tăng Tuyết Minh ở bên Tầu, rồi hai cô đầm Pháp ở Paris, chung sống như vợ chồng với Nguyễn Thị Minh Khai ở Nga, sống có con với Nông Thị Xuân ở Hà nội. Đứa con không cha này không có ai khác đó là Vũ Trung, con nuôi của ông Vũ Kỳ, thư ký riêng của ông Hồ, mà tên thật là Nguyễn Tất Trung. Ngoài ra còn có tin đồn là Nông Đức Mạnh, đương kim tổng bí thư CSVN cũng là con rơi của ông Hồ với một người con gái Mường do Trung cộng ban phát cho khi ông Hồ sống ở trong hang Pắc-pó, là bà Nông Thị Ngát. Những chuyện này, không ai có thể bác bỏ được, ngay cả đảng CSVN cũng không dám đưa ra công luận để phủ nhận. Với thời đại khoa học như hiện nay, nếu những lời tuyên truyền của CSVN về đời tư của ông Hồ là sự thật thì bằng phương pháp thử DNA giữa ông Hồ và Nguyễn Tất Trung, Nông Đức Mạnh, đảng CSVN có thể làm sáng tỏ vần đề và bênh vực được những gì họ nói về ông Hồ. Nhưng đảng CSVn không dám làm bởi vì họ sợ sư thật sẽ bị phơi bầy về thần tượng HCM.
Ai cũng biết vào ngày 05 tháng 06 năm 1911, ông Hồ lên tầu Pháp tại bến cảng nhà Rồng, Sài gòn với cái tên Nguyễn Văn Ba, làm phu bồi bếp cho thủy thủ trên tầu, là do kế sinh nhai vì lúc bấy giờ thân sinh của ông Hồ là cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đã bị giáng bốn ngạch quan và thất sủng với triều đình Huế, sau vụ cụ say rượu đánh chết một người nông dân tên Tạ Đức Quang, vì thế gia cảnh ông Hồ trở nên khó khăn, dựa trên những trước bạ sử học lúc bấy giờ của triều đình Huế và những lời truyền tụng qua những nhân chứng sống cùng thời. Điều này trái ngược ngược hoàn toàn với lịch sử của đảng CSVN nói về cha ông Hồ, cụ Nguyễn Sinh Sắc cáo quan về vườn ở ẩn vì không muốn hợp tác với triều đình Huế.
Chính vì gia cảnh trở nên bần hàn, ông Hồ mới xuất dương tìm kế sinh nhai bằng bất cứ giá nào. Bằng chứng là ông Hồ đã viết đơn vào học ở trường thuộc địa Pháp ngày 15 tháng 09 năm 1911 chỉ sau hơn ba tháng kể từ ngày rời bến cảng nhà Rồng, theo như lá đơn do ông Hồ lúc bấy giờ có tên là Nguyễn Tất Thành viết, còn lưu giữ trong văn khố của Pháp. Xin được phép lưu ý là trường thuộc địa Pháp là nơi đào tạo các dân bản xứ trở thành quan lại thuộc địa để phục vụ quyền lợi của mẫu quốc thực dân Pháp. Điều này cũng đã được chính ông Hồ viết trong lá đơn xin nhập học : ‘’... mong mỏi được trở nên hữu ích cho nước Pháp đối với đồng bào tôi...’’ nghĩa là sẽ vì quyền lợi của Pháp mà sẵn sàng đàn áp đồng bào Việt nam của ông ta. Qua đây chúng ta thấy rõ là ông Hồ không phải xuất dương để tìm đường cứu nước mà vì tìm kế sinh nhai, và nuôi mộng làm quan để phụng sự mẫu quốc thực dân Pháp. Tiếc thay, mộng làm quan của ông Hồ đã bị Bộ thuộc địa Pháp từ chối, vì ông Hồ tới Pháp để tìm kế sinh nhai, chứ không phải đi qua Pháp bằng con đường chính thức để nhập học vào trường thuộc địa này. (Thư từ chối của trường thuộc địa này đã nói rõ lý do từ chối như vậy).
Phải chăng khi mộng làm quan cho thực dân Pháp không thành, nên ông Hồ đã bám vứu vào đảng CS Pháp, rồi từ đó tự nguyện làm kẻ thừa hành cho chủ nghĩa CS Quốc tế (CSQT) để thực hiện cái mộng làm quan bất thành của mình theo đúng cái nghĩa : ‘’cứu cánh biện minh cho hành động’’? Để rồi đẩy đưa cá nhân ông và hàng triệu người dân bất hạnh Viêt nam vào con đường cuồng lửa chiến tranh trong suốt hơn nửa thế kỷ sau đó.
Trước khi về nước, HCM đã trở thành đảng viên của đệ tam quốc tế Cộng Sản đảng, với nhiều bí danh khác nhau để che dấu bộ mặt thật của HCM là đảng viên CSQT, để móc nối, gần gũi với các nhà hoạt động yêu nước chân chính khác như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh... để rồi triệt tiêu dần những thành phần yêu nước ưu tú này, để thực hiện mưu đồ bá vương do chỉ thị của CSQT. Tại Hương cảng (Hồng Kông), HCM đã giả có hẹn để gặp nhà ái quốc Phan Bội Châu để bàn việc cứu nước, nhưng HCM không tới và ngầm báo với thực dân Pháp điểm hẹn gặp mặt, để thực dân Pháp bắt cụ và bỏ tù cho đến chết.
Bắt đầu từ những năm hai mươi của thế kỷ trước, các chế độ phong kiến thuộc địa của Pháp, Anh phải đối đầu với một phong trào giành độc lập dân tộc từ khắp nơi trên thế giới. Anh, Pháp phải nhượng bộ và trao trả độc lập cho hầu hết các thuộc địa của họ từ Mỹ la-tinh qua Á và Phi. Việt nam cũng không ngoài lệ, Pháp buộc phải trao quyền độc lập vào 17 tháng 04 năm 1945 với sự ra mắt của chính phủ Trần Trọng Kim với đông đảo thành phần dân sự, trí thức đảng phái tham dự. Trong lúc chính phủ này đang còn trong thời trứng nước, Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã lợi dụng cơ hội này để cướp chính quyền từ chính phủ Trần Trọng Kim vào ngày 19 tháng 08 năm 1945, chứ không phải từ thực dân Pháp. (Điều này bác bỏ luận điệu của đảng CSVN là họ có công giành độc lập dân tộc từ thực dân Pháp.) Nhưng vì không được ủng hộ của đồng bào cả nước, Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã buộc phải nhượng bộ các đảng phái đấu tranh cách mạng chống thực dân Pháp khác như Việt nam quốc dân đảng, Đại Việt quốc dân đảng, Đại Việt cách mạng đảng...tham dự vào chính phủ của HCM để cũng cố niềm tin của người dân lúc bấy giờ, trong ngày tuyên đọc tuyên ngôn độc lập ngày 02 tháng 09 năm 1945. Ngay cả quốc hội lúc bấy giờ đảng CSVN của HCM chỉ chiếm có 50 ghế, còn các đảng phái khác giữ 70 ghế trong tổng số 120 ghế. Trong chính phủ thì HCM làm chủ tịch nhưng bộ quốc phòng do Vũ Hồng Khanh (Đại Việt ) làm bộ trưởng, Võ Nguyên Giáp (CS) làm thứ trưởng; bộ ngoại giao thì Nhất Linh Nguyễn Trường Tam ( Việt quốc) làm bộ trưởng.
Sau khi ngấm ngầm củng cố nội bộ đảng CSVN, HCM đã bắt tay với Pháp để rước Pháp vào đô hộ Việt nam lần thứ hai từ 1946 đến 1954 qua việc ký hoà ước ngày 06-03-1946. Việc làm này, HCM và đảng CSVN đã chính thức rước Pháp vào Việt nam một cách danh chính ngôn thuận, bởi vì HCM muốn mượn tay thực dân Pháp để loại trừ các đảng phái quốc gia ra khỏi chính phủ của họ. HCM và đảng CSVN đã dựng ra vụ án Ôn như Hầu, để từ đó thẳng tay triệt tiêu các đảng phái chính trị khác nhằm độc diễn sân khấu chính trị Việt nam từ đó. Qua việc làm này HCM và đảng CSVN đã thành công trong việc triệt tiêu Việt quốc, Việt cách, Đại Việt ra khỏi chính trường Hà nội. Từ đó đảng CSVN giành độc quyền chống Pháp với sự yểm trợ trực tiếp của CSQT nhất là Liên-xô và Trung cộng. Hai nước CS đàn anh này đã trang bị và huấn luyện cho CSVN từ chân răng đến kẽ tóc. Ngay cả nhân sự lãnh đạo của CS Trung Quốc (CSTQ) và Liên-xô cũng có mặt trong trận chiến Điện biên phủ năm 1954 để chấm dứt giai đoạn thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp tại Việt nam. Như vậy chiến thắng Điện biên phủ thực ra là chiến thắng của phe CSQT dành quyền thuộc địa từ tay thực dân Pháp chứ không phải là chiến thắng của dân tộc Việt nam và Võ Nguyên Giáp như mọi người vẫn lầm tưởng. Qua chiến thắng Điện biên phủ, CSQT đã chính thức chiếm được miền Bắc Việt nam thông qua thái thú HCM và đám thực dân bản địa là đảng CSVN. Một sự thật hùng hồn đó là hiệp định Genever 1954 đã chia đôi nước Viêt nam. Miền Bắc thuộc quyền quản trị của thái thú HCM và thực dân bản địa đảng CSVN, còn miền Nam lập nên chính phủ Việt nam Cộng hoà do tổng thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo.
Dưới chỉ đạo của CSQT, HCM cùng đảng CSVN đã thực thi một cuộc cải cách ruộng đất, đấu tố phú hào, địa chủ vào những năm 1956-1958 một cách dã man vô nhân tính. Đảng CSVN lấy danh nghĩa là trưng thu ruộng đất để chia cho dân nghèo, nhưng thực chất là một cuộc thanh trừng đẫm máu đối với bất cứ ai thuộc thành phần tư sản, địa chủ và phú nông; ngay cả với những người đã có công không nhỏ đối với phong trào đòi độc lập dân tộc hay ngay chính với đảng CSVN. Cứ lấy gương bà Nguyễn Thị Năm ở Thái nguyên, người đã cống hiến cả trăm lạng vàng trong tuần lễ vàng cho công cuộc kháng Pháp, và nuôi nấng cán bộ trung ương CSVN, ngay chính cá nhân HCM, vậy mà cũng bị đem ra đấu cho đến chết.
Sau này, vì bị dân chúng phản đối, HCM đã không dám trực tiếp lãnh nhận trách nhiệm về mình mà đưa Võ Nguyên Giáp ra chịu đòn thay. Bởi vì ở cương vị bộ trưởng quốc phòng lúc bấy giờ, ông Võ Nguyên Giáp không phải là người có quyền chỉ đạo phong trào đấu tố rùng rợn như vậy, nếu không có sự lãnh đạo của ông HCM là chủ tịch nước và chủ tịch đảng CSVN lúc bấy giờ.
Rồi vụ nhân văn giai phẩm, HCM đã chỉ đạo bộ văn hóa thông tin, cơ quan tuyên truyền của đảng CSVN đứng đầu là Tố Hữu, một nhà thơ nổi tiếng xu lịnh các lãnh tụ CSQT từ Lenin, Stalin, Mao và HCM… với những bài thơ mà bất cứ một người nào có chút liêm sỉ đọc ra cũng thấy sự bỉ ổi, trơ trẽn đến nợm giọng. Với vụ nhân văn giai phảm này, HCM và đảng CSVN đã triệt hạ biết bao nhân tài văn chương thời bấy giờ như Trần Dần, Phan Khôi, Văn Cao... đẩy những nhân tài văn hoá, nghệ thuật của văn học cận đại Việt nam vào con đường cùng tuẫn tử hay gác bút chờ thời.
Hiệp định Geneve (Thụy sĩ) đã chia cắt hai miền Nam Bắc Việt nam thành hai thể chế chính trị khác nhau. Thay vì, mỗi bên tự lo việc quản trị quốc dân xây dưng quốc gia sau một thời gian dài thuộc địa của thực dân Pháp, như sự chia cắt của Đức và Đại hàn. Để rồi, người dân tự lựa chọn cho mình một thể chế chính trị phù hợp với nguyện vọng chung. Nhưng ông HCM và đảng CSVN đã không làm như vậy mà nhất quyết chọn làm tên lính xung phong tiền đồn cho chủ nghĩa đế quốc CSQT. Lợi dụng chiêu bài thống nhất đất nước để thực thi chỉ thị từ Moscow, Bắc Kinh là nhuộm đỏ Việt nam bằng mọi giá. Chỉ tính riêng cuộc nội chiến từ năm 1959 khi chính phủ Ngô Đình Diệm ra luật 10/1959 để bao vây CS miền Nam đến khi HCM chết 1969, vẻn vẹn mười năm này đã có hàng triệu sinh linh ưu tú của cả hai miền Nam Bắc đã chết oan uổng cho một ý đồ “thống nhất” của ông HCM. Riêng vụ tổng tấn công 1968 vào những ngày tết Mậu thân này cũng đã có tới hàng vạn người bỏ mạng, vì ông HCM và đảng CSVN đã lợi dụng ngưng chiến để ăn Tết, rồi tấn công bất thình lình vào các thành thị và làng mạc tại miền Nam. Vụ thảm sát hàng ngàn người ở Huế đã chứng tỏ ông HCM không thương tiếc bất cứ một mạng sống của con dân Việt để thực thi ý đồ của chủ nghĩa CSQT tại Việt nam. Qua cuộc tổng tấn công này, HCM và đảng CSVN đã nhận thấy sức mạnh chiến đấu của quân dân VNCH, không phải dễ dàng tiêu diệt như họ nghĩ, phải chăng đây cũng là lý do dẫn đến cái chết của ông HCM mấy tháng sau đó, ngày 02-09-1969? Nhưng đảng CSVN lại tuyên bố là 03-09-1969 để tránh ngày trùng “quốc khánh” của nhà nước CS.
Cho đến giờ phút này có lẽ không ít người Việt trong nước vẫn nghĩ rằng HCM đã được Tổ chức văn hoá thế giới (UNESCO) tuyên dương là danh nhân thế giới nhân ngày sinh nhật (?) thứ 100 của ông ta như đảng CSVN đã lập lờ tổ chức tại Hà nội. Trên thực tế, CSVn đã vận động hành lang cho việc này, nhưng họ đã hoàn toàn thất bại trước sự vận động của người Việt hải ngoại qua phong trào “NO HỒ” vào năm 1990 tại Paris. Cuối cùng, UNESCO đã từ chối công nhận HCM là danh nhân thế giới, như CSVN vận động và tuyên truyền. Ngay cả một phái đoàn CSVN đông đảo cả gần 200 người dự định làm rùm beng tại Paris để tuyên truyền về hình tượng HCM, đã trở thành một buổi văn nghệ bỏ túi, ngay cả giấy mời cũng không được nhắc tới tên ông Hồ. Không có bất cứ một đại diện ngoại giao nào, hay đại diện của UNESCO nào tới tham dự. Thật bẽ bàng thay! Thế nhưng tại Hà nội, đảng CSVN vẫn ngang nhiên lừa bịp người dân và tỗ chức sinh nhật HCM một cách rùm beng, không biết ngượng.
Đảng CSVN luôn luôn rêu rao về cái gọi là “tư tưởng HCM”, nhưng họ không nói ra được cái gì là tư tưởng HCM? Từ đâu mà có tư tưởng HCM? Cho dù họ có cả một ban tuyên truyền tư tưởng trung ương, bộ văn hoá, hàng năm tiêu tốn hàng tỉ đồng, mà không đủ khả năng để tạo nên một nền tảng “tư tưởng HCM” như họ rêu rao. Bởi vì, trên thực tế ông HCM hoàn toàn không có một chút gì gọi là tư tưởng riêng của mình cho cách mạng Việt nam, ngoại trừ việc cóp nhặt chắp vá từ các danh nhân thế giới, rồi nói hoặc viết ra, sau đó tự coi là của mình. Hành động này là hành động của một kẻ đạo văn, chứ không phải của một nhà tư tưởng. Phải chăng đây chỉ là cái bánh vẽ tư tưởng mà đảng CSVN đưa ra để làm bùa hộ mạng, hay tấm bia đỡ đạn cho những việc làm phản dân, hại nước của họ từ ngày cướp chính quyền năm 1945 trở lại đây.
Qua đây, chúng ta thấy cả thân thế, sư nghiệp của cuộc đời HCM là cả một chuỗi dài của lường gạt, bịp bợm và sát máu để thực hiện giấc mộng làm quan của ông ta. HCM đã bất chấp mọi thủ đoạn để hãm hại những nhà yêu nước chân chính, có công với nền độc lập dân tộc Việt, triệt hạ bất cứ ai không theo CSQT cho dù những người ấy là yêu nước thật sự, giết hại ngay cả người thân, đồng chí hay bạn đời chung chăn, chung gối, nếu thấy sự tồn tại của người ấy làm tổn hại đến ngôi vị lãnh tụ của ông ta. Đây là thủ đoạn tàn bạo của một kẻ hoạt đầu chính trị, coi mạng sống người ta rẻ như bọt bèo, miễn sao thực hiện được mưu đồ chính trị của mình là đủ. Thử hỏi, như vậy thì HCM có xứng đáng là một người mà đảng CSVN luôn luôn rêu rao và tuyên truyền thế hệ trẻ Việt nam phải “sống chiến đấu, lao động và học tập” theo ông Hồ hay chăng?
Để kết luận bài viết này, tôi xin mượn lời của triết gia người Pháp, ông Jean-Francois Revel nhận xét về ông HCM như sau:
“Hồ Chí Minh, lẽ ra, đã có thể là một vị anh hùng tạo lập một nước Việt Nam tân tiến và dân chủ, một người đáng lẽ đã dẫn đưa đất nước mình thoát khỏi sự lệ thuộc vào thực dân và hướng về một nền văn minh hiện đại, như một tổng hợpcác truyền thống với bản sắc của một quốc gia mới mẻ.
Khốn thay, mục tiêu của ông không phải là nền độc lập của Việt Nam, mà là việc sáp nhập nước này vào Quốc tế Cộng sản. Không phải là để cho dân tộc mình có quyền tự quyết, quyền bầu cử, quyền lựa chọn các vị lãnh đạo, với các luật lệ và nếp sống của mình, mà là áp đặt chủ nghĩa độc tài Stalin vào dân tộc Việt Nam, bằng cưỡng bức với đủ tất cả các hình thức tạo ra nó như các vụ hành quyết, các trại tập trung, như làm biến chất con người bằng lao động cải tạo, với nạn đói khát trong nhân dân và sự hủ hóa trong hàng ngũ cầm quyền, như việc quân sự hóa triệt để, với chính sách ngoại giao theo mệnh lệnh của Moscow”
Vân Việt Hà
03/2006
http://s152542055.onlinehome.us/xoops4/modules/newbb/viewtopic.php?topic_id=1083&forum=9&post_id=3499#forumpost3499
vendredi 15 juin 2007
Inscription à :
Publier les commentaires (Atom)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire