Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh ở Việt Nam
Việt Thường
Bài 9.
Ngày 28/4 đến 3/5/1956, với cương vị “tổng bí thư”, Trường Chinh triệu tập hội nghị cán bộ trung và cao cấp của mafia đỏ để phổ biến nghị quyết 20 của Nga-xô. Chẳng biết trước đó Trường Chinh có cho chân tay đi vận động ngầm không, nhưng trong hội nghị đã có ý kiến về việc Hồ tự đề cao mình cũng như có nạn “sùng bái cá nhân” trong “đảng”. Có thể Trường Chinh rất khoái, nhưng không may cho Trường Chinh là đồng thời nhiều ý kiến phê bình về cải cách ruộng đất, về nạn cửa quyền của mậu dịch, về tệ nạn của khai báo hộ khẩu, về thái độ không đúng đối với văn nghệ sỹ v.v… nghĩa là những vấn đề dính đến trách nhiệm của Trường Chinh, nên Trường Chinh đấu dịu, hắn nói: “Có tệ sùng bái cá nhân nhưng chưa đến nỗi quá đáng v.v…” và hứa sẽ xem xét lại. Sự do dự mất tự tin khiến Trường Chinh bỏ lỡ cơ hội dựa vào sự bất mãn của cán bộ trung cao để lật Hồ (sợ bị nhào theo). Thế là Hồ thủ lợi.
Vừa thoát hiểm, để cho chắc ăn hơn, Hồ cho triệu tập hội nghị lần 10 (khóa 2) vào tháng 9-1956, qui trách nhiệm về sai lầm cải cách ruộng đất cho Trường Chinh, Hoàng quốc Việt và lột chức tổng bí thư của Trường Chinh, đuổi Hoàng quốc Việt ra khỏi chính trị bộ, còn là ủy viên trung ương thôi. Lê văn Lương cũng bị ra khỏi chính trị bộ, còn là dự khuyết trung ương. Còn Hồ, hắn vẫn là chủ tịch đảng kiêm tổng bí thư. Thấy Hồ gian hùng chưa?
Kể từ đó, ngoài Hồ ra, không ai có tư cách triệu tập hội nghị trung ương.
Gạt được Trường Chinh và chân tay của hắn rồi, Hồ còn nghi ngờ một nhân vật nữa là Võ nguyên Giáp. Tuy rằng Giáp chưa có bất kỳ một biểu hiện nào là chống đối Hồ, nhưng vì bấy giờ Giáp lại là người có nhiều ưu thế:
- Được coi là người có công đầu “đánh thắng thực dân Pháp và can thiệp Mỹ”, đã “giải phóng được một nửa đất nước”;
- Giữ ghế ủy viên chính thức ccủa chính trị bộ mafia đỏ, bộ trưởng quốc phòng, đại tướng tổng tư lệnh, bí thư quân ủy trung ương;
- Uy tín của Giáp lên như diều ttrong cả lực lượng vũ trang, trong cả nhân dân – nông thôn thành thị – trong cả học sinh, sinh viên, trí thức và văn nghệ sỹ;
- Uy tín cả trong nước và ngoài nước;
- Thêm nữa, Giáp không mắc các ttội “sùng bái cá nhân”; không dính đến “cải cách ruộng đất”…
Nếu “anh cả đỏ Nga-xô” hay “anh hai Trung cộng” mà đi đêm được với Giáp thì Giáp có thể là người duy nhất lật đổ Hồ một cách dễ dàng.
Vì thế Hồ đã đi một quả thử lòng Võ nguyên Giáp. Kiểu thử này Hồ cũng đã từng làm qua với cựu vương Bảo Đại. Chẳng là trước ngày ký kết Hiệp định sơ bộ (6/3/1946), khi ấy cựu vương Bảo Đại là cố vấn tối cao của Chính phủ Liên hiệp đa đảng, cư ngụ tại 51 Trần Hưng Đạo (Hà-nội). Một bữa đến thăm cựu vương Bảo Đại, Hồ năn nỉ Bảo Đại giữ chức chủ tịch chính phủ vì hắn không đủ uy tín nên Pháp gây nhiều khó khăn. Vì cũng chẳng hiểu tâm lý của Hồ nên đáng ra từ chối thì cựu vương Bảo Đại lại nói với Hồ rằng để bàn lại xem. Khi bàn với các người thân cận gồm các cụ Trần trọng Kim, luật sư Nguyễn mạnh Hà, cụ Hoàng xuân Hãn v.v… có mặt cả tên “chỉ điểm” của Hồ là Phạm khắc Hòe (nguyên thư ký của cựu vương Bảo Đại). Nhiều người khuyên dù Hồ giả vờ hay thực thì cũng vì việc lớn của đất nước cựu vương nên nhận lời. Chắc chắn chỉ có Phạm khắc Hòe báo cáo, nên ngay hôm sau Hồ gặp cựu vương Bảo Đại, rút lại ý kiến hôm trước. Hắn nói đại ý, dù khó khăn mấy hắn cũng cố đảm nhận trách nhiệm đã được Quốc hội I giao phó. Đó là nguyên nhân Hồ đề nghị cựu vương Bảo Đại cầm đầu một phái đoàn đi Trùng-khánh gặp Tưởng giới Thạch. Rồi hắn cắt tiếp tế khiến cựu vương Bảo Đại phải ở lại Tàu một thời gian và đành phải bỏ luôn cả chức cố vấn tối cao. Hồ thử bằng cách đề nghị Giáp thay mặt “trung ương và Hồ” xin lỗi về “sai lầm trong cải cách ruộng đất” trước dân, với lý do là Giáp có uy tín lớn đối với nhân dân.
Võ nguyên Giáp là thằng rất ngu khi nhận lời đề nghị đó của Hồ. Vì sao? Bởi cả cuộc đời Hồ là hành xử bất nhân vô hậu như đã chứng minh ở trên. Từ việc bán cụ Phan Bội Châu, bôi nhọ cụ Phan Chu Trinh, ám hại Lê hồng Phong, phá cuộc khởi nghĩa của cụ Nguyễn Thái Học, lạnh nhạt với chị ruột, ngủ với Nông thị Xuân có con rồi lại cho giết đi để giữ cái danh “thánh sống” v.v… Hồ còn là kẻ hiếu thắng, ngoại trừ mẫu quốc đỏ ra, hắn tự cho là “thiên hạ anh hùng đệ nhất” dưới trời Việt Nam, và cái gương tày đình là hắn vừa hạ bệ bè lũ Trường Chinh. Cho nên, khi Giáp vui vẻ nhận nhiệm vụ xin lỗi dân thì tính cách con người của Hồ, chắc chắn hắn cho rằng Giáp đã bắt đầu tự phụ là có thể thay được Hồ. Nếu khôn ngoan một chút thì Giáp phải nói đại ý là: “Trong trung ương không một ai có uy tín, công lao bằng Hồ và được dân tin phục như Hồ, nên đề nghị Hồ đích thân thì mới xong việc. Giáp luôn luôn tuân phục lệnh Hồ, nhưng sợ không đủ uy tín nên sợ hỏng việc phó thác của Hồ.”
Và, Giáp đã phải trả một giá rất đắt cho sự ngu muội đó (tuy gần gũi Hồ mà như bao kẻ khác, vẫn mù lòa chẳng nhìn ra được con người thực của Hồ – trách nào những kẻ ở xa, chỉ nghe nói về Hồ, chẳng u mê, sai lệch!). Kể từ đó ngôi sao chiếu mệnh của Giáp bị lu mờ, bị ăn đòn hội chợ của từ Nguyễn chí Thanh đến Lê đức Thọ, cho đến cả Trần Quỳnh, Nguyễn cơ Thạch và cả me-xừ “trí thức không bằng cục cứt” là thạc sỹ sử học tốt nghiệp tại Pháp là Phạm huy Thông!!! Và cả những cấp dưới của Giáp như Văn tiến Dũng, Chu huy Mân cho đến anh “đại tá nhẩy sào” cai ác ôn đồn điền cao-su của Tây là thằng cha Lê đức Anh!!! Thật tội nghiệp “đại tướng 4 sao đặt vòng chống thụ thai” của ngụy quân cộng sản!
Nói chung, cái kết thúc của tên Việt gian nào rồi cũng vậy, nhất là loại Việt gian ngu lâu!!!
Vì tính cách đa nghi của kẻ làm gián điệp chuyên nghiệp, lại chuyên nghề lừa đảo nên Hồ luôn luôn “suy bụng ta ra bụng người”, vì thế Hồ vẫn lưu nhiệm phe lũ Trường Chinh ở cái thế mà hắn vẫn khống chế được, nhằm làm đối trọng với phe nhóm Lê Duẩn, Lê đức Thọ. Vì hắn cũng phải đề phóng sự phản trắc của nhóm Lê Duẩn, Lê đức Thọ. Thêm nữa, Hồ còn dùng hai nhóm đối đầu nhau đó trong thủ pháp đi dây giữa Nga-xô và Trung cộng mà hắn không cần phải lộ mặt.
Vài tháng sau khi hạ bệ phe nhóm Trường Chinh, Hồ tuyên bố là quá bận nhiều việc, không thể kiêm nhiệm một lúc nhiều chức vụ được nên Hồ “giới thiệu” (chỉ định một cách tế nhị) Lê Duẩn tạm giữ chức “bí thư thứ nhất” để giúp Hồ điều hành công việc “đảng”. Mục đích của Hồ là tạo điều kiện cho Lê Duẩn và Lê đức Thọ củng cố chỗ đứng trước khi đi vào cuộc “bầu chính thức”. Và, để chắp thêm vây cánh cho Duẩn, cũng như “tỏ thái độ” với Giáp, Hồ cho bổ sung Phạm Hùng (đại tá phụ trách công an miền Nam Việt Nam) vào chính trị bộ và ngồi trên Võ nguyên Giáp.
Tháng 12-1957, Hồ cho triệu tập hội nghị 13 (khóa 2) ra nghị quyết về “nắm vững chuyên chính” và “đưa miền Bắc Việt Nam tiến lên CNXH”. Như thế, có nghĩa là dùng bạo lực để tước đoạt tài sản toàn dân miền Bắc Việt Nam vào tay đảng mafia đỏ của Hồ. Người dân miền Bắc Việt Nam bị bần cùng hóa nên về thực tế trở thành nô lệ.
Cũng từ cái lệnh “nắm vững chuyên chính” này, Hồ giao cho Trường Chinh và Tố Hữu chỉ đạo việc đàn áp cuộc đấu tranh của văn nghệ sỹ đòi có tự do trong sáng tác. Để che cái lốt độc tài khát máu, bè lũ mafia đỏ Hồ chí Minh dựng ra cái gọi là “vụ án gián điệp Thụy An” để một mặt đàn áp lực lượng văn nghệ sỹ, trí thức từ vùng cộng sản chiếm giữ trước, một mặt tiêu diệt mầm mống tự do dân chủ của lực lượng văn nghệ sỹ ở lại Hà-nội, không di cư vào Nam. Trong số đó có nữ sỹ Thụy An (vợ của ông Đỗ đình Đạo, chỉ huy đệ tam quân thứ lưu động), ông Nguyễn thiếu Bảo – chủ nhà xuất bản Minh Đức, cũng bị kết án 15 năm tù, thực tế quá hạn tù vẫn không được ra tù. Tất nhiên là không chứng cớ mà cũng chẳng cần qua thủ tục tố tụng. Vì, tên Việt gian Hồ chí Minh đã cho vứt cả bộ tư pháp lẫn khoa luật ở trường đại học vào hố xí. Kể từ đó, nhân dân miền Bắc Việt Nam bị cai trị bằng lệnh miệng (một loại khẩu dụ thời phong kiến) là chính. Thí dụ: tên Hoàng văn Hoan ra lệnh miệng thôi mà nhà văn Vũ Trọng Phụng (chết từ 1940) và các tác phẩm của ông bị cho vào sọt rác! Hay như Hồ chỉ tấm ảnh của Hà huy Tập (nguyên tổng bí thư mafia đỏ) nói: “Chú Tập hay phê bình “bác” lắm đấy!” Thế là ảnh của Hà- huy Tập bị lột khỏi cái gọi là “viện bảo tàng cách mạng”!!!
Cho nên sau này có ai nghiên cứu về Hồ và đồng bọn của hắn thì làm sao tìm ra được văn bản về các tội ác của chúng được. Càng để lâu, nhân chứng già chết hết, thế là hết chuyện!!!
Tháng 1-1959, Hồ triệu tập hội nghị trung ương mafia lần 15 (khóa 2), đẻ ra nghị quyết 15 (không phổ biến ra ngoài trung ương) là nghị quyết dùng vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam, mở đường Trường-sơn lập thành quân đoàn thường trực với cái tên “cộng trường 59” và đưa lính ngụy cộng sản và vũ khí vào phá hoại mọi mặt đời sống của nhân dân miền Nam Việt Nam, ở thời điểm đó đã đạt được nhiều thành tích cả về trị an, xây dựng kinh tế và ổn định xã hội. Lực lượng nằm vùng bắt đầu hoạt động, vừa chống phá, vừa móc nối những phần tử gọi là “trí thức không bằng cục cứt”; tụi cơ hội “đứng núi này trông núi nọ”; tụi “quáng gà chính trị” trông “gà hóa quốc”, “thả mồi bắt bóng”; tụi “thò lò sáu mặt” chính khách sa-lông; “tụi “sư sãi hổ mang”, “linh mục chuồn chuồn” v.v… để cho ra đời gánh hát chính trị, sau này được đặt tên là “chính phủ cách mạng lâm thời” mà số phận của nó ra sao thì ai cũng đã biết (nhưng nhiều kẻ cũng chưa đúc rút được bài học kinh nghiệm rất đắt giá cho cả dân tộc Việt Nam lẫn bản thân họ).
Cũng thời gian đó, Hồ cho gọi Đỗ Mười ở Hải-phòng về chỉ huy cái gọi là “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh”. Tổ tiên ta đã dạy: “Trông mặt mà bắt hình dong”, cho nên dù không đọc lý lịch thực của Đỗ Mười thì cũng biết đó là tên “bán trời không văn tự”. Tên thật của hắn là Cống, quê ở Yên-sở, huyện Thanh-trì (chỗ bến Phà-đen, Hà-nội đi xuôi một chút), xưa thuộc tỉnh Hà-đông, nay thuộc Hà-nội. Đỗ Mười làm nghề hoạn lợn, đi các chợ như Bạch-mai, Thường-tín, Phú-xuyên v.v… hoạn lợn, rồi làm lý trưởng. Can tội “lấy tiền thuế đánh bạc” bị cháy túi nên bị thực dân Pháp cho đi tù Sơn-la. Với bản chất và quá khứ đó, Đỗ Mười đúng là mẫu “sinh ra để làm mafia đỏ” và hắn được Tô Hiệu, Nguyễn lương Bằng cho tuyên thệ vào “băng đảng”. Nhiệm vụ lúc đầu thử thách của Đỗ Mười là “đổ cứt của tù”, đáng lẽ mỗi tù nhân luân phiên làm một ngày, nhưng Mười “thích cứt” nên xin nhận làm cả 30 ngày của tháng.
Hồ biết đến Đỗ Mười vì khi tiếp quản Hải-phòng, Mười là bí thư mafia đỏ và Hoàng hữu Nhân là chủ tịch thành phố Hải-phòng. Mười đã có “sáng kiến” dựng ra vụ án “dụ dỗ di cư vào Nam” để ngăn chặn việc di cư vào Nam; cũng như dựng ra vụ án “gián điệp Phan Năm” ở mỏ than Hòn-gai để “trấn áp giai cấp công nhân” không được đi Nam.
Nếu “cải cách ruộng đất” của Hồ làm “long trời lở đất” ở nông thôn Bắc Việt Nam, với tỷ lệ bị bắt giết, tù đày là 5% của dân số nông thôn Bắc Việt Nam, khi đó là 14 triệu (ấy là chưa kể nhiều người sợ quá đã tự tử một mình hoặc đầu độc cả gia đình cùng chết trước khi đội cải cách đến), thì “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” của Hồ cũng “đảo lộn trời đất, cương thường, đạo đức” ở thành thị miền Bắc Việt nam. Thật đúng là lũ cướp ngày kiểu mafia! Nên nhớ rằng đích thân Hồ kêu gọi con cái đấu tố cha mẹ. Cụ thể là Hồ đã khen con gái một của ông bà chủ hiệu thuốc Hồng Khê (Hà-nội) dám đấu tố cha mẹ. Con ranh con này lập tức được kết nạp thành đoàn viên chính thức của cái gọi là “đoàn thanh niên lao động Hồ chí Minh” (là lực lượng dự bị và là cánh tay mặt của mafia đỏ – như Hồ tuyên bố). Không những thế, nó còn được vào học ở trường đại học y khoa Hà-nội. (Con này sau lấy chồng, đẻ con, lương bác sỹ của mafia đỏ là thứ mạt rệp nên thiếu thốn, chẳng thấy “bác Hồ” của nó đâu, đành quay lại trong vòng tay bao dung và săn sóc của cha mẹ).
Xin lưu ý rằng, kiểu “cải tạo” ở thành thị như thế này, sau khi đã thừa nhận sai lầm trong cải cách ruộng đất, càng chứng minh lập luận của tôi là mọi phong trào của Hồ và tay chân cho đến nay đều là âm mưu tội ác, ngay cả cái gọi là sửa sai hay mở cửa, đổi mới v.v…
Nhiều hình ảnh theo kiểu “bà địa chủ kháng chiến yêu nước” Nguyễn thị Năm lại được Hồ cho tái lập. Thí dụ ông chủ hãng nước mắm Vạn Vân, người làm kinh tài cho Hồ trong những năm chống Pháp, bị tịch thu toàn bộ tài sản. Đến căn nhà riêng ở phố Cao Bá Quát (Hà-nội) cũng bị chiếm dụng một phần, phần còn lại cho cố nhạc sỹ Đoàn Chuẩn (em vợ ông Vạn Vân) và các con của ông Vạn Vân ở, kể cả nhà phụ. Căn phòng của cố nhạc sỹ Đoàn Chuẩn cũng bị trưng dụng, ban ngày làm lớp học nhạc do phòng văn hóa quần chúng thuộc Sở văn hóa Hà-nội quản lý. Con trai út của ông Vạn Vân, một kỹ thuật viên xây dựng trung cấp cũng bị tù ở Quảng-ninh gần chục năm vì “thành phần tư sản” dính dáng đến việc một căn nhà bị đổ (nhưng không chết người), còn những kẻ “thành phần cơ bản” được vô can. Cố nhạc sỹ Đoàn Chuẩn phải xin đổi cho Tổng cục Bưu điện của ngụy quyền Hà-nội hai chiếc xe hơi hiệu Buick và Frégate (của hãng Renault) để lấy chiếc guitare 2 cần và 3 chiếc xe đạp nữ, hiệu Mercier (vì những thứ này mậu dịch ngụy chỉ bán cho cơ quan ngụy quyền cộng sản). Ông Bùi hưng Gia ở Hàng Trống (Hà-nội), người đã ủng hộ 100kg vàng trong “tuần lễ vàng” để Hồ “đút lót” cho Lư Hán và Tiêu Văn (Tàu Tưởng) rút quân Tàu khỏi miền Bắc Việt Nam, cũng bị cướp nhà và cửa tiệm. Ông Trịnh văn Bô, chủ căn nhà phố Hàng Ngang, đã cho Hồ tá túc để viết “tuyên ngôn độc lập” cũng chung số phận. Ông chủ hãng sơn Tô Châu, cùng ông Vạn Vân làm kinh tài cho Hồ, còn đau hơn nữa vì vừa mất hết tài sản lại vừa mất con. Chẳng là ông ta tin rằng mình là “tư sản dân tộc yêu nước” nên đã khuyên con trai là trung úy Trường (quân lực của Quốc trưởng Bảo Đại) – bạn của tướng Nguyễn bảo Trị (quân lực miền Nam Việt Nam) ở lại Hà-nội. Thế là trung úy Trường bị đi cải tạo (tức tù khổ sai) vì tội danh “ngụy quân”, tận cuối 1973, sau khi hiệp định Paris về Việt Nam được ký kết, mới được về. Nhà tan, cửa nát, trung úy Trường lấy một cô gái lao động, mua một con bò và vợ chồng ngày ngày đi chở gỗ mướn cho các hợp tác xã, sống trong căn nhà lá ở bờ sông Hồng (chỗ viện bảo tàng Louis Finot nhìn ra). Còn, cũng trung úy, nhưng đi Nam thì lên tới cấp tướng, tư lệnh quân khu, như tướng Nguyễn bảo Trị.
Hai số phận cùng một điểm xuất phát có sự khác nhau là do khác nhau về quan điểm: chấp nhận hay phủ nhận chế độ mafia đỏ. Xưa cũng vậy, nay cũng vậy: ở lại Việt Nam là phản động, vượt biên thì thành Việt kiều yêu nước!
Cái “chân lý” giản dị ấy mà đến nay nhiều người vẫn không thể nhớ được!(?) Có người vượt biên chết hết vợ con mà lại thuộc loại mau quên nữa kia!
Đòn độc của thằng “chuyên nghề đổ cứt” Đỗ Mười, thì sau tháng 4/1975, nhân dân miền Nam Việt Nam đã được biết qua các vụ đổi tiền cũng như các chiến dịch X1, X2. Lê Duẩn vẫn dùng lại Đỗ Mười như xưa Hồ đã dùng vậy (chắc theo lời dặn của Hồ).
Thành thị miền Bắc Việt Nam tan hoang có phần còn hơn ở nông thôn qua ngón võ “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” của Hồ. Người chết chắc cũng khoảng trên dưới chỉ tiêu 5% mà Hồ đưa ra cho việc giết nông dân ở Bắc Việt Nam. Nhiều người chẳng bao giờ buôn bán cũng bị “đấu tố tù đày”, chỉ vì trong những năm 1945-46 đã biểu tình trong hàng ngũ VNQDĐ hay Đại Việt v.v… hoặc trong nhà có ảnh, có sách báo về Nguyễn Thái Học, về Phan Chu Trinh, về sách của nhà xuất bản Hàn Thuyên (nhóm Trost-kit). Đến mức ai ở Hà-nội xưa đều biết đến “người bán thịt bò khô” ở trước quán Mụ Béo, phải tự tử vì bị truy thuế, tính từ năm 1945!!!(?) Một gia đình ở Cao bá Quát (Hà-nội), cách nhà cố nhạc sỹ Đoàn Chuẩn một nhà, phải tự tử cả gia đình. Đại loại, ít nhất cũng cả triệu gia đình là nạn nhân của Hồ. Cũng tịch thu tài sản, nhà cửa, cũng đưa nhau ra khu phố đấu tố, làm nhục, cũng tử hình (chỉ khác là không bắn tại chỗ) và đuổi đi kinh tế mới. (Sau ngày 30/4/1975, nhiều sỹ quan trong quân lực miền Nam Việt Nam bị đưa lưu đầy ra thượng du miền Bắc Việt Nam vẫn còn gặp những gia đình “bị Hồ đuổi đi phát vãng” như vậy hệt kiểu Stalin với dân Ku-lắc).
Có chút khác với “cải cách ruộng đất” là không có sửa sai. Tại sao? Vì bọn Trường Chinh đã bị hạ bệ rồi và đã có nghị quyết cho phép chuyên chính. Nhưng cái chính yếu là Hồ đã hoàn toàn đảo chánh xong Chính phủ Liên hiệp đa đảng!!! (Cả Quốc hội, cả Chính phủ, cả Hiến pháp 1946 bị xóa sổ.)
Thời kỳ làm “cải cách ruộng đất” Hồ còn che mặt Việt gian. Đến “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” thì ngụy quyền Hồ chí Minh lộ rõ bộ mặt công cụ của mẫu quốc đỏ. Như một đoàn quân thực dân xâm lược đặt chân lên đất thuộc địa, chúng cướp bóc, vơ vét cả người cả của. Hầu hết nhà cửa khang trang, vi-la tốt đẹp, đường phố yên tĩnh đều bị chúng chiếm đoạt, kể cả đồ đạc (y hệt như sau 4/1975 chúng vào miền Nam Việt Nam). Sau những tên to đầu từ Hồ trở xuống thì đến ngụy quân cộng sản. Nhiều người phải “hy sinh” làm vợ ngụy quân để con cái khỏi bị đi phát vãng lên thượng du dưới mỹ tự “kinh tế mới”. Cụ thể, chủ tiệm đặc sản thịt dê P.H. phải gả con gái cho một tên trung tá ngụy quân, bị thương “không còn cái ấy”. Một trung tá ngụy khác cũng cưỡng ép một bà chủ tiệm tơ lụa xưa ở ngã tư Hàng Đào – Lãn Ông. Sau đó hắn còn cưỡng hiếp hai con gái của bà này. Chuyện đưa ra “pháp luật” cũng “huề cả làng”. Ngay một gia đình lính ngụy cộng sản ở Hàng Đào, chung nhà với cố nhạc sỹ Nguyễn trọng Hưởng, từng phục vụ ở đệ tam quân khu (do đại tá Nguyễn văn Vận chỉ huy), vì muốn chiếm thêm căn phòng của nhạc sỹ Nguyễn trọng Hưởng đã gây chuyện đánh tàn nhẫn cô con gái nhạc sỹ Nguyễn trọng Hưởng. Sự việc khiếu nại bị ỉm đi vì như đại diện Viện kiểm sát khu Hoàn Kiếm khi đó, trả lời với phóng viên báo Thủ-đô rằng: “Dù con gái thằng này (tức nhạc sỹ Nguyễn trọng Hưởng) đang là nhạc công của đoàn văn công Quảng-ninh, nhưng nó là “ngụy”, có chuyện gì với “bộ đội ta” thì cũng phải xử theo “tính đảng” – nghĩa là bỏ qua”! Ngay Nguyễn văn Trân, ủy viên ban bí thư mafia đỏ của Hồ và được Hồ chí Minh chỉ định làm “bí thư thứ nhất thành ủy Hà-nội” cũng cặp bồ với cả hai mẹ con nhà tư sản lâu đời ở phố Hàng Bồ (Hà-nội) là P.G.T., nên được giữ nhà cửa mà còn được Trân cấp cho giấy “độc quyền nhuộm”. Thậm chí một gánh hàng đầu đường, bán bánh mì và “cà-phê bít tất” như của vợ chồng “Lâm lác”, ở vĩa hè phố Hàng Vôi, nhờ gả em gái cho tên thuế vụ mafia đỏ mà chuyển sang căn hộ rộng rãi ở Phan Thanh Giản. “Lâm lác” tiếp tục bán bánh mì pa-tê v.v… và cà-phê, nhưng rất nổi tiếng vì là “mạnh thường quân” của nhiều văn nghệ sỹ miền Bắc Việt Nam. Sự trân trọng các tác phẩm và cá nhân các văn nghệ sỹ còn hơn rất nhiều và đáng phục rất nhiều so với cái “Hội nhà văn” của Nguyễn đình Thi và cái ban tuyên huấn của “vè sỹ” Tố Hữu!
Cuộc “cải tạo xã hội” của tập đoàn Hồ chí Minh ở miền Bắc Việt Nam đã cho bọn chúng nhiều thuận lợi để chuẩn bị và tiến hành chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam, vì:
1- Hồ đã là chủ nhân tuyệt đối cả con người và tài nguyên thiên nhiên miền Bắc; đã biến tổ chức mafia đỏ của hắn thành một giáo đoàn của một thứ “tà giáo cực đoan khát máu” (y hệt tụi Taliban hiện nay vậy);
2- Hồ đã là “siêu lãnh tụ” của tập đoàn mafia đỏ, y hệt Stalin ở Nga-xô trước đó: lời nói của Hồ là kinh điển, là luật, là “chân lý”. Bất kể lãnh vực nào trong sinh hoạt vật chất và tinh thần của xã hội miền Bắc Việt Nam khi ấy đều sưu tập ý kiến của Hồ làm kim chỉ Nam, từ nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công, hợp tác xã, thương nghiệp, văn hóa giáo dục, quân sự, tôn giáo, giao thông vận tải, thủy lợi, sinh đẻ, gia đình, thiếu nhi, ăn mặc, ma chay cưới hỏi, ngoại giao cho đến cả cứu hỏa, biểu diễn văn nghệ v.v… thậm chí cả “làm hố xí hai ngăn”. Chính vì noi gương đó của Hồ mà Trần hữu Dực, một phó thủ tướng của ngụy quyền Hồ chí Minh luôn luôn tìm dịp phổ biến “sáng kiến” rửa mặt không được vắt khăn mặt, làm thế mau rách; và dùng đồng hồ không cần đeo dây, không cần thiết; hay đi xe đạp không cần “chắn xích, chắn bùn”, lãng phí nhôm để làm việc khác.
Bọn Hồ có những “lệnh miệng” cực tai quái như không được dùng các “sách kinh điển của chủ nghĩa Mác”, của “lãnh tụ” và báo Nhân dân (dù đã cũ) để gói hàng v.v… Nhiều người bị đi cải tạo chỉ vì bị tố giác là dùng báo Nhân dân gói hàng hoặc “chùi đít”!
Chuyện như vậy thì thế hệ con em Việt Nam sau này và quốc tế làm sao tìm ra bằng chứng giấy trắng mực đen, và khi những nhân chứng già chết hết, chỉ còn lại bài viết như của Lữ Phương chẳng hạn, hẳn thế hệ sau chúng ta sẽ bị ảnh hưởng để đi đến kết luận “hư thực ra sao chưa được chứng minh thật thuyết phục”.
Ngay thời phong kiến cũng còn dễ dàng cho nghiên cứu, chứ cái chế độ của ngụy quyền Hồ chí Minh thì không thể căn cứ vào văn bản, sách vở được, kể cả của ngụy quyền sản xuất lẫn những “cây viết chống đối” kiểu Lữ Phương và nhiều nhân vật tên tuổi khác, như xưa kia là những bác sỹ Nguyễn khắc Viện, Trần bạch Đằng, Trần văn Giàu và Trần quốc Vượng!
3- Bằng cái gọi là “đấu tranh giai cấp”, phân chia xã hội thành 13 đẳng cấp; bằng việc “vô sản hóa toàn dân”, Hồ đã làm cho toàn xã hội Việt Nam như một đàn chó đói, chúng giết nhau để sống, chúng giết nhau vì một cục xương thừa Hồ quăng ra; chúng chen lấn phía cửa chuồng chờ Hồ rút then cửa để nhào ra săn đuổi tất cả mọi thứ chúng gặp trên đường, để nếu sống trở về thì hy vọng được Hồ cho khúc xương, cho “liếm bãi nước bọt”, từ đó có thể được ra cái chuồng khác thoải mái hơn tý chút. Còn như, nếu có chết thì cũng là một kiểu được giải thoát khỏi cảnh đói khát, tranh giành trong cũi chật hẹp.
Cả xã hội miền Bắc Việt Nam trong tay Hồ “nhào nặn” trở thành một nhà thương điên vĩ đại. Đi xem phim ảnh, người ta đua nhau ném guốc, ném đá lên màn ảnh khi có nhân vật phản diện xuất hiện. Ở sân khấu cũng thế, nhiều diễn viên thủ vai phản diện bị đánh, bị dọa giết. Người ta hoan hô, vỗ tay khi thấy “lãnh tụ” hay “cờ búa liềm”. Kẻ nọ theo rõi người kia, ai chậm chạp hay thiếu nhiệt tình thế là bị lôi ra đấm đá, bị chụp mũ là “phản động lọt lưới” v.v… Điều này có thể Lữ Phương không được chứng kiến hoặc nghe nói nhưng nếu thấy chưa bị “thuyết phục”, thì hãy hỏi lại những người như Trần Độ, Hoàng minh Chính, Lê hồng Hà, Trần quốc Vượng v.v… xem có đúng không.
Trong thanh niên, sinh viên, học sinh, trí thức, binh lính v.v… lại còn có cái trò “viết nhật ký” nhưng lại cố tình để cho mọi người có thể đọc được (nhất là cho các cấp ủy mafia đỏ ở cơ sở) những “tâm sự”, những ước vọng “được chết cho bác Hồ”, “được làm bất kể việc gì làm bác vui”. Từ cấp mẫu giáo cho đến lớn; từ nhà trường cho đến nhà máy, nông trường, công trường, các công sở v.v… đều có cái gọi là “bích báo” (báo tường), đua nhau làm thơ ca ngợi “bác Hồ”, gửi quyết tâm thư lên “bác Hồ” xin được chết cho “sự nghiệp của bác Hồ vĩ đại”!
Đối với thế hệ trẻ, luôn luôn được nhồi sọ: “Cha mẹ sinh ra ta, nhưng “bác và đảng” cho ta cuộc sống, cho ta nên người”, đủ thứ bà rằn loại như vậy.
Với cái khí thế của các hồn ma trong tay như thế, tên phù thủy Hồ chí Minh công khai cả trong và ngoài nước hành động “bành trướng chiến lược của mafia đỏ” núp dưới chiêu bài ủng hộ và có nghĩa vụ giúp nhân dân miền Nam Việt Nam giải phóng khỏi sự cùm kẹp của “Mỹ-Ngụy”!!!(?)
Như thế có nghĩa là, bằng “chuyên chính” và “tiến lên CNXH”, Hồ đã thâu gọn toàn bộ tài sản của xã hội Bắc Việt Nam khi ấy, đã dùng “sợi dây đỏ CNXH” cột chặt cái bao tử của toàn dân miền Bắc Việt Nam, cho sống, cho chết, cho điên, cho khóc, cho cười tùy ý, nghĩa là không chỉ làm chủ cái thân xác mà cả linh hồn, sau khi đã thoái hóa tất cả thành trí nô, nông nô, công nô và binh nô.
Một số phóng viên nước ngoài, xanh cũng có mà đỏ cũng có, thường khen “tinh thần chiến đấu” của quân dân miền Bắc Việt Nam. Họ có biết đâu rằng những con người trông bề ngoài bình thường, giản dị, chân chất ấy đều đã bị tập đoàn mafia đỏ mà kẻ cầm đầu là Hồ chí Minh đã dùng phương pháp Paplov để thuần hóa, kích thích cái thú tính bản năng, không còn là người, không còn “bộ óc bình thường” nữa. Tất cả là lũ điên.
Tào Tháo trong chuyện Tam Quốc của Tàu chỉ làm được cho mỗi mình Bàng Đức thành điên khùng mà quyết tử chiến với Quan Vân Trường. Còn Hồ và cái tổ chức Việt gian công dân búa liềm của hắn đã sản sinh “hàng triệu tên điên quyết tử” cho sự nghiệp Việt gian của Hồ. Óc họ hoàn toàn thành bã đậu, không hề tìm hiểu xem cái “sự nghiệp vĩ đại” của Hồ là gì? Có lợi cho ai, hại cho ai? Sai, đúng thế nào? Cho đến tận 2001 này, nhiều người đã thấy được cái “bánh vẽ XHCN”, nuốt không dzô mà vẫn không dám oẹ ra, không dám mở to mắt, cố dùng ít tế bào óc được phục hồi để nhìn nhận ai là thủ phạm sản xuất bánh vẽ. Hơn nửa thế kỷ thực tế máu và nước mắt vẫn còn thấy là “hư thực ra sao chưa được chứng minh thật thuyết phục”. Quả là ngu quá lâu!
Năm 1958, Hồ bán nước, dâng Hoàng-sa, Trường-sa cho Trung cộng thì vẫn là “anh hùng giải phóng dân tộc”. Còn năm 2000-2001 này, lũ Đỗ Mười, Lê khả Phiêu và Nông đức Mạnh cũng vừa bán đất, biển cho Trung cộng thì sao lại nhìn ra ngay?!!! Chúng đi theo con đường của “Hồ” đấy!!!
Chuẩn bị xong xuôi hết, tháng 8-1960, Hồ cho tổ chức cái gọi là đại hội mafia đỏ lần thứ ba. Nghị quyết đại hội của chúng chủ yếu là:
- nắm vững chuyên chính;
- xây dựng chủ nghĩa xã hội ở? miền Bắc;
- và thống nhất miền Nam Việt NNam bằng hòa bình. Ngay nội bộ mafia đỏ với nhau chúng cũng giấu cái nghị quyết vũ trang xâm lược, NQ/15 tháng 1-1959, và để đánh lừa quốc tế.
Nhân sự được Hồ bố trí như sau:
- Chủ tịch đảng: Hồ chí Minh, kiêm ủy viên chính trị bộ
- Bí thư thứ nhất: Lê Duẩn, ủ?y viên chính trị bộ
Các ủy viên chính trị bộ khác theo thứ tự bậc thang quan lại đỏ:
- Trường Chinh: chủ tịch quốc hội ngụy quyền Hà-nội
- Phạm văn Đồng: thủ tướng nggụy quyền Hà-nội
- Phạm Hùng: phó thủ tướng thỻ? nhất ngụy quyền Hà-nội
- Võ nguyên Giáp: phó thủ tướngg, bộ trưởng quốc phòng ngụy quyền
- Nguyễn chí Thanh: phó bí thư quÃ?n ủy mafia đỏ
- Lê đức Thọ; trưởng ban tổ cchức trung ương mafia đỏ
- Nguyễn duy Trinh: phó thủ tướnng
- Lê thanh Nghị: phó thủ tướng<
- Hoàng văn Hoan: phó chủ tịch quuốc hội ngụy, đại sứ tại Trung cộng
Và hai dự khuyết bộ chính trị là:
- Văn tiến Dũng: tổng tham mưu trưởng ngụy quân cộng sản
- Trấn quốc Hoàn: bộ trưởng cÃ?ng an ngụy quyền Hà-nội.
Hồ nắm quyền tuyệt đối vì hắn cùng lúc giữ các chức: chủ tịch đảng, ủy viên chính trị bộ; chủ tịch hội đồng quốc phòng; chủ tịch nước.
Còn Lê Duẩn được thực thụ là “bí thư thứ nhất” (chứ không phải tổng bí thư; phải đến đại hội lần 4, sau khi xâm lược miền Nam xong, Lê Duẩn mới nhận được cái danh xưng “tổng bí thư”) kiêm bí thư quân ủy (Giáp tụt xuống phó bí thư).
Chưa cho Lê Duẩn cái danh xưng “tổng bí thư” là Hồ chưa muốn cho toàn đảng mafia đỏ của Hồ thấy rằng Lê Duẩn đã ở vị trí lấn át. Hồ cần Duẩn phải cố gắng hơn nữa, chủ yếu là tổ chức vũ trang xâm lược bằng được miền Nam cho Hồ. Chính vì thế, mà Lê Duẩn “đã liều mạng” vào Nam để chuẩn bị cho gánh cải lương chính trị của luật sư Nguyễn hữu Thọ và chút xíu đi chín suối hoặc dzô nhà tù của cụ Ngô Đình Diệm (tháng 12-1960).
Tin dưới đây tôi chưa có điều kiện và cũng không thể kiểm chứng được, nhưng vẫn nêu ra để biết đâu sau này có ai đó tìm ra manh mối chăng. Đó là, sau khi được “chính thức hóa cái ngôi bí thư thứ nhất, qua cái gọi là đại hội 3 của mafia đỏ”, Lê Duẩn dựa vào sự bố trí của tụi còn nằm vùng ở miền Nam (trung ương cục) và sự đưa tin tình báo của nội gián Phạm ngọc Thảo (khi ấy làm tỉnh trưởng của Bến-tre) nên đã về “vùng 4“ để họp. Ai dè quân đội của cụ Ngô Đình Diệm đã bắt được Lê Duẩn cùng một số nhân sự của mafia đỏ nằm vùng ở miền Nam Việt Nam. Nhưng không biết vì sao ngay sau đó tất cả đều được tha. Thế là Hồ đang buồn, Trường Chinh đang “mở cờ trong bụng” cũng thay đổi ngược luôn. (Một người cực thân của Trường Chinh lộ tin này).
Tháng 11-1960, Hồ dắt Lê Duẩn đi dự cuộc họp của 81 đảng mafia đỏ và cùng ký vào nghị quyết ủng hộ đường lối của Nga-xô. Cho dù lần này thần tượng của Hồ là Stalin đã bị đổ, và Nga-xô đang muốn “thi đua hòa bình” là đường lối trái với “đường lối khát máu” của Hồ và Trung cộng, nhưng Hồ lúc nào cũng “tuân theo mẫu quốc”, vì thế nên vẫn ký. Hồ vẫn hy vọng phe Stalin sẽ nắm lại quyền lực ở Nga-xô. Mâu thuẫn giữa “anh cả Nga-xô” và “anh hai Trung cộng” đẩy Hồ vào một thế phải ứng xử thật tế nhị. Chính vì bị ngộ độc bởi những “huyền thoại” do Hồ tự tạo ra xung quanh cuộc đời của hắn nên người ta không dám nhìn vào con người thật của Hồ để lý giải đường đi, nước bước của Hồ giữa hai thế lực “Nga-xô” và “Trung cộng”.
Bài 10
Mặc dù có nhắc đến việc Hồ lấy bút danh Trần dân Tiên để tự đánh bóng (từ 1948) cùng với các bút danh khác như T. Lan, và có thể Hồ là người đầu tiên tự bốc thơm trước khi bầy nô lệ cung đình của Hồ làm cái việc sản xuất các “tụng ca” về Hồ, thế mà Lữ Phương đến tận năm 2001 này còn tự mâu thuẫn trong đề cương về “Huyền thoại Hồ chí Minh” khi Lữ Phương viết rằng: “Nhưng do đảng cộng sản Việt Nam không chỉ muốn dừng lại với cái công lao ấy (tức công lao chống thực dân) mà còn vượt lên thời gian tồn tại muôn năm nên hình ảnh của Hồ chí Minh phải được tô vẽ sao cho thật lý tưởng, thật phi thường. Và đó cũng là chính sách tạo thần tượng của guồng máy.”
Theo Lữ Phương, nghĩa là Hồ vô tội. Việc đề cao Hồ không do tự Hồ bốc thơm chính mình, mà do “chính sách tạo thần tượng của guồng máy”! Vậy Lữ Phương hiểu guồng máy là cái gì, là ai? Sợ tập đoàn mafia đỏ chưa hiểu, Lữ Phương hạ bút nói rõ hơn: “Từ bên ngoài, nhiều người đã thấy khá nhiều những bực bội, buồn phiền gây ra cho ông bởi chính cái đám âm binh cách mạng của ông!!!” Chắc chỉ có một mình me-xừ mánh mung, cơ hội chủ nghĩa là Lữ Phương mới thấy Hồ buồn phiền không muốn “đám âm binh cách mạng” của Hồ nịnh Hồ(?)! Chịu không hiểu nổi ý của “nhà chính khách, nhà trí thức” dzô bưng! Hẳn là Lữ Phương cố tình đưa ra lập luận này để bên dưới đó có thể thuyết phục được người đọc rằng “tin tôi đi”, Hồ vô tội mà, tất cả chuyện giết nhân dân miền Nam Việt Nam, xâm lược miền Nam Việt Nam, theo Trung cộng đều là lỗi của bọn Lê Duẩn, kể cả âm mưu đề cao Hồ!!! Chắc chắn cả đời Lữ Phương cũng chỉ đọc và nghe nói về Hồ ở một giới hạn cực nhỏ mà thôi. Nếu Lữ Phương được dự những kỳ họp có Hồ thì sẽ hiểu hơn chút nữa, đầu óc bớt tối tăm hơn. Thử giở lại những thước phim tài liệu về Hồ để thấy, dịp sinh nhật Hồ, tổ chức tại “phủ chủ tịch”, Hồ đứng nhìn ngang nhìn ngửa như dưới mắt không có ai, còn anh già Tôn đức Thắng lụ khụ thay mặt “đảng và chính phủ” chúc thọ Hồ, khúm núm như “cừu trước sói”, đằng sau là một lũ mặt hơn hớn, nụ cười nịnh trên mỏ. Đó là: Duẩn, Chinh, Đồng, Giáp, Thọ, Nghị, Chu văn Tấn, Nguyễn thị Thập, Hoàng minh Giám và v.v…
Cho nên, một mặt Hồ và Duẩn vẫn ký vào tuyên bố chung của “81 đảng”, một mặt Hồ vẫn bật đèn xanh cho bọn Duẩn, Chinh thì thọt họp với Trung cộng làm ra vẻ tán thành việc Trung cộng định lập ra một “quốc tế mới” để phủ nhận ngôi vị “anh cả” của Nga-xô.
Cái sự đi gần quan điểm “giáo điều” của Trung cộng đã khiến Hồ tiếp tục công cuộc “xâm lược miền Nam Việt Nam” có nhiều thuận lợi hơn. Đối ngoại thì được Trung cộng viện trợ súng đạn và mọi nhu yếu phẩm, kể từ cái kim khâu đến cái bô đi ỉa của trẻ em; rồi từ gạo thịt cho đến lê, táo, nho, rượu, thuốc lá, kem đánh răng v.v… Đối nội thì tăng cường đàn áp (tức nắm vững chuyên chính), vì theo lệnh Hồ, Trường Chinh mới nhân danh chủ tịch quốc hội ký “nghị quyết 49/NQ/TVQH, ngày 20-6-1961 cho phép bắt đưa đi tù khổ sai (núp dưới cụm từ “cải tạo”) tất cả những người không thích hợp với chế độ mafia đỏ Hồ chí Minh, không cần xét xử, chỉ qua đề nghị của công an đường phố.
Với lệnh “khổ sai” này, họ Hồ đã làm cho toàn thể nhân dân miền Bắc Việt Nam khi ấy “sợ vãi đái trong quần”, và mọi người chỉ còn hai con đường để chọn:
1) Hoặc đi vào tù để lao động khổ sai không thời hạn;
2) hoặc ngoan ngoãn, ở thành thị thì nộp nhà cửa, tài sản; gia nhập hợp tác xã tiểu thủ công hay thương nghiệp; hoặc đi công trường, lâm trường, nông trường; ở nông thôn thì phải vui vẻ thi hành cái gọi là “hợp tác hóa nông nghiệp”. Và, cũng là sẵn sàng vào ngụy quân để xâm lược miền Nam Việt Nam.
Trung cộng bỏ tiền của ra cho họ Hồ thì tất nhiên cũng phải đòi lại cái gì chứ. Cho nên, cuối năm 1963, Hồ cho Lê Duẩn cầm đầu đoàn mafia đỏ Việt Nam, cùng Trường Chinh, Nguyễn chí Thanh và Hoàng văn Hoan (đại sứ của ngụy quyền Hồ chí Minh ở Bắc-kinh) sang Tàu bàn về việc cho ra đời cái gọi là “quốc tế cộng sản” Mao-ít. Thảo luận dài dài, nhưng rồi không đi đến đâu và cái “quốc tế Mao-ít” đó bị sẩy thai. Chỉ có lú lẫn mới không thấy được nước cờ của Hồ. Vì đoàn có 4 mống thì ba thằng thân Trung cộng là Trường Chinh, Nguyễn chí Thanh và Hoàng văn Hoan, điều này tất nhiên vừa lòng Trung cộng. Nhưng Lê Duẩn là trưởng đoàn lại là “bí thư thứ nhất” nên hắn quyết định (tất nhiên là lệnh của Hồ) để “về nước bàn lại”. Cái sự bàn lại ấy là sự đu dây của Hồ rất điệu nghệ.
- Không có chuyện ủng hộ Trung cộng để đẻ ra cái “quốc tế Mao-ít”;
- Nhưng để “tế nhị” với việc “hứa lèo” việc ủng hộ cho ra đời “quốc tế Mao-ít”, nên Hồ giao cho Trường Chinh thảo cái gọi là nghị quyết 9 (cuối 1963), nghĩa là ”đi theo con đường của Trung cộng”, trái với nghị quyết của đại hội 3 cũng như Tuyên bố chung của 81 đảng mafia đỏ (1960). Và, tháng 1-1964, tại câu lạc bộ Ba-đình, được phép của Hồ, Trường Chinh họp với các cán bộ trung và cao cấp của mafia đỏ, nói thẳng thừng rằng đường lối đối nội và đối ngoại của mafia đỏ Việt Nam nhất trí với Trung cộng.
Về chuyện nghị quyết 9 này, có mấy người “ly khai” có câu chuyện làm quà cho đồng bào hải ngoại (và cả tuổi trẻ nữa) rằng Hồ mấy lần dơ tay xin phát biểu nhưng bị Lê đức Thọ át đi không cho nói. Còn một chuyện khác thì kể là trước khi họp trung ương mafia đỏ về nghị quyết 9, Lê Liêm có lên gặp Hồ và phản đối nghị quyết 9, Hồ nghe rồi bảo Lê Liêm khi họp cứ phát biểu ý kiến của Lê Liêm, có gì Hồ sẽ phát biểu sau (ý là ủng hộ Lê Liêm). Thế rồi Lê Liêm phát biểu trong cuộc họp, bị Lê đức Thọ, Trường Chinh xài xể cho một trận, Lê Liêm đưa mắt nhìn Hồ “cầu cứu” thì Hồ lờ đi, không nói gì cả. Và, Lê Liêm cho rằng Hồ sợ (người viết sách diễn tả như vậy).
Nếu quả chuyện trên là có thật thì việc cho rằng Lữ Phương ngu dốt khi sao chép lại (kể cả của Vũ Kỳ, thư ký của Hồ) để tin rằng Hồ “bị cho ra rìa” có hơi quá chăng? Vì ngay Lê Liêm, một ủy viên dự khuyết của trung ương mafia đỏ mà còn ngu lâu và quáng gà nữa là (nếu chuyện kể trên là có thật).
Xin nhớ cho rằng, cái cuối năm 1963 đó, Hồ còn khỏe mạnh, mập như heo, mặt đỏ au như nhuộm phẩm, giọng còn sang sảng, sáng chiều tập thái cực quyền, và hắn vẫn number-one khi ấy, nghĩa là: chủ tịch đảng kiêm ủy viên chính trị bộ mafia đỏ; chủ tịch nhà nước ngụy quyền Hà-nội; chủ tịch hội đồng quốc phòng, nghĩa là hắn có quyền “veto” tuyệt đối!
Nguyên tắc làm việc của mafia đỏ là: mỗi lần cần họp trung ương mafia đỏ để ra một quyết nghị nào đó thì trên thực tế cái nghị quyết ấy đã được thảo ra ngay sau khi có ý kiến của Hồ (có thể bàn qua với Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm văn Đồng). Nghĩa là nghị quyết đã thành văn bản trước. Sau đó, trong hội nghị trung ương của chúng, chủ yếu là phổ biến cái nghị quyết đó cho cái lũ gọi là thành viên trung ương mafia đỏ để thi hành. Nếu có cho thảo luận thì cũng chỉ là chiếu lệ gọi là, để rồi gật hết. (Tận bây giờ vẫn còn như vậy đấy thôi).
Lê Liêm quá ngu nên mới xin gặp Hồ để phản đối. Vì Hồ mới là cha đẻ cái nghị quyết ấy. (Ngu thì chết là đúng rồi). Lê Liêm quên rằng Hồ là ông chủ, còn từ Lê Duẩn trở xuống chỉ là tay sai của Hồ theo thứ tự thang bậc mà Hồ ban cho.
Tính cách gian manh tàn độc của Hồ và quá trình bôn ba trong nghề gián điệp, chuyên thủ tiêu mọi vật cản đường công danh của Hồ thì phải nhớ rằng Hồ đâu phải “chúa chổm” của nhà Lê trung hưng mà để cho Lê Duẩn làm cái việc của Trịnh Kiểm!!!
Thật khùng khi tin rằng Hồ giữ thực quyền như vậy mà bị Lê đức Thọ lấn át, “bịt mồm”. Thế mà nay cái me-xừ Vũ Kỳ chỉ là gia nô của Hồ, chưa bao giờ được cái chân dự khuyết trung ương mafia đỏ, vậy mà chẳng ai dám bịt miệng. Vũ Kỳ cũng đang nuôi đứa con của Hồ với cô bé Nông thị Xuân (Hồ hơn Nông thị Xuân gần 50 tuổi) đấy. Lữ Phương thử “điện thoại” hỏi xem hư thực ra sao và cũng hỏi Vũ Kỳ xem hắn thấy “ông chủ Hồ chí Minh của hắn” có đạo đức cách mạng tuyệt vời không? Và nếu quả chỉ có Lê Duẩn chủ trương xâm lược miền Nam Việt Nam thì tại sao Lữ Phương dám nâng bi rằng Hồ “tổ chức cuộc chiến đấu bền bỉ chống lại các thế lực thực dân hiện đại, đã hoàn thành độc lập thống nhất”.
Các thế lực thực dân là ai, ngoài thực dân Pháp? Không có ý kiến về vấn đề miền Nam, “tại sao Hồ lại có công thống nhất”?
Lữ Phương dùng lối viết hoa hòe hoa sói cố làm thật giả lẫn lộn. Nếu ai vô tình không đọc kỹ thì dễ cho rằng Lữ Phương “chống đối nhưng vô tư”. Nhưng đọc kỹ thì thấy Lữ Phương là loại “giả quân tử” cũng là loại nâng bi có hạng đấy, tiếc chưa gặp thời. Tất nhiên bộ máy mafia đỏ sẽ đọc kỹ nên chúng sẽ hiểu ẩn ý của Lữ Phương. Cái đó chúng ta chẳng quan tâm. Chúng ta lo là thế hệ trẻ vì thiếu cuộc sống thực, chỉ dựa vào tài liệu kiểu của Lữ Phương (ngòi bút phản kháng) chắc sẽ bị đeo đuổi ngay từ đoạn mở đầu (mà cũng có nghĩa là khẳng định, là kết luận) của Lữ Phương rằng: “Hồ chí Minh là nhân vật quan trọng trong phong trào cộng sản quốc tế và giải phóng dân tộc thuộc thế kỷ 20. Ông đã lập ra Đảng cộng sản Việt Nam, tổ chức cuộc chiến đấu bền bỉ, chống lại các thế lực thực dân hiện đại, đã hoàn thành độc lập, thống nhất, tạo cơ sở quyền lực để thiết lập chế độ gọi là chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Việt Nam.
Không một bản “tụng ca” nào của tập đoàn mafia đỏ có giá trị (vô tư) và phong phú như đoạn văn ngắn, nói trên, của nhà “trí thức yêu nước” “Lữ Phương”!!! Ô la la!!!
Như thế, nếu quả có cái chuyện Hồ bị cấm phát biểu thì cũng chỉ là bằng trò ảo thuật của một gián điệp bôn ba, từng trải, Hồ đóng kịch lép vế khi thông qua nghị quyết 9 (tung tin là bị Lê đức Thọ o ép không cho phát biểu) để giúp Hồ khỏi bị “anh cả Nga-xô” giận. Còn “anh hai Trung cộng” thấy nghị quyết 9 được thông qua thì mừng quá, thế là ào ào chở súng, đạn, gạo thịt qua cho Hồ thực hiện sự vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam.
Đến lúc đó (tức 1963) thì lại xảy ra câu chuyện về sự đàn áp một số người “bảo lưu ý kiến chống nghị quyết 9 (nghị quyết Mao-ít)”. Có thật là đã có cái chuyện gọi là “đòi hỏi dân chủ” ở trong đảng mafia của Hồ không?
Trước khi bàn chuyện này, phải nói đến một vấn đề khác, đó là: “anh cả Nga-xô” và “anh hai Trung cộng” của họ Hồ.
Sau khi ký hiệp định Genève 1954 về Việt Nam, họ Hồ và bầu đoàn nhếch nhác từ Việt-Bắc vào Hà-nội. Lập tức đại sứ quán Nga-xô chiếm cả trường nữ học Félix Faure làm trụ sở, cùng một loạt các vi-la đồ sộ ở gần đó và cả ở đường Nguyễn Thượng Hiền nữa. Như thế vẫn chưa đủ cho các “chuyên gia Nga-xô” (thực chất là viên chức của bộ máy thực dân đỏ) ở, nên phải cấp tốc cho xây thêm khu Kim-liên ở Hà-nội. Còn ở các tỉnh thì núp dưới cái tên là “nhà giao tế”, “Anh hai Trung cộng” bị hạ phong hơn, nên chiếm tòa “thủ hiến Bắc-Việt”, trước vườn hoa Canh Nông. Văn phòng trung ương mafia đỏ Việt Nam thì chiếm toàn bộ trường Albert Sarraut. Hồ chiếm cái “biệt điện” tức phủ toàn quyền cũ. Nhà riêng Phạm văn Đồng chiếm tòa nhà ở Khúc Hạo, liền tường với “sứ quán Nga-xô”, đi bộ 2, 3 phút là tới chỗ của Hồ. Tóm lại, bộ máy quan lại của Hồ và các “toàn quyền Nga-xô” và “phó toàn quyền Trung cộng” đều quây quần với nhau chung một khu. Năm 1960, đại sứ Nga-xô là thiếu tướng tình báo Serbakov; còn của Trung cộng vẫn là thiếu tướng La quý Ba.
Nhân dân miền Bắc Việt Nam, sau hiệp định Genève 1954, đúng là một cổ ba tròng: Nga-xô, Trung cộng và ngụy quyền Hồ chí Minh.
Cả Nga-xô và Trung cộng đều tìm cách mở rộng ảnh hưởng trong nhân dân miền Bắc Việt Nam. Những ngày cuối 1954, phong cách Trung cộng ở thế thượng phong với hình ảnh ngụy quân cộng sản Hồ chí Minh ăn mặc, đi đứng hệt Tàu cộng. Cả bộ sậu từ Hồ trở xuống đều mặc “bộ áo Mao-tsé-tủng” bốn túi, màu cỏ úa sậm hoặc dạ đen cổ cao. Trong ngụy quân cộng sản thì sỹ quan áo bốn túi, lính thì hai túi, giống hệt cảnh phân chia “cái bang” trong chuyện chưởng của Tàu. Học sinh, giáo viên ở “khu học xá” bên Tàu về thì khăn mặt bông quấn cổ, tên nào cũng có cái “quẹt” và cái đèn pin nhãn “Hồng kỳ” và số lớn còn đeo khẩu trang (vệ sinh kiểu ba Tàu cộng lúc đó). Bọn chúng đi với nhau “xí ngổ, xí koỏng” tiếng Tàu. Trông thật tội nghiệp, như một đàn chó hoang. Cả lính, cả dân, cả học sinh của cái gọi là “vùng kháng chiến” từ Việt-Bắc cho đến Khu Bốn, trông nhếch nhác như lính “Tàu ô” hồi sang Việt Nam năm 1945 vậy! Chúng đi từng toán, nắm chặt tay nhau lóa mắt về đèn điện, về hàng hóa, về các món ăn, về người của Hà-nội. Mặc dù lệnh của ngụy quyền Hồ chí Minh khi ấy là “nghiêm cấm ăn uống ở các tiệm, mua bán hàng hóa và đến nhà dân Hà-nội, sợ bị đầu độc hoặc bị ám hại v.v…” (sợ không?!!!). Nhưng chỉ một ngày sau cả lính, cả sỹ quan, cả cái đám nhố nhăng ấy đều “chạm trán” nhau trong các tiệm phở, các nhà hàng, đến làm quen các nhà dân, xin đủ mọi thứ, y như cảnh sau 4-1975, tụi ngụy quân Hà-nội đua nhau chạy thục mạng vào Sài-gòn vậy. Có chút khác là Sài-gòn của nhân dân miền Nam Việt Nam phong phú, đa dạng, vĩ đại gấp ngàn vạn lần Hà-nội của 1954.
Hà-nội như rừng “cỏ linh chi” đã thức tỉnh các văn nghệ sỹ qua cơn điên loạn của “rèn cán chỉnh quân”, “đấu tranh chính trị”, “cải cách ruộng đất” v.v… để trở lại làm người, một người thực sự với mọi cảm xúc, suy nghĩ bằng chính ngũ quan và cái đầu của mình. Vì thế mới có chuyện thi sỹ Trần Dần vứt mẹ nó cái “đấu tranh giai cấp” đi, để yêu một cô giáo người công giáo; thi sỹ Hoàng Cầm cũng quên luôn bài thơ sáng tác ca ngợi đấu tố trong “cải cách ruộng đất” để trở về với chính tâm hồn thi sỹ lãng mạn của mình; Lê Đạt, thư ký văn nghệ của Trường Chinh, thì thẳng tay rũ bỏ “cô vợ cố nông” mà trong kỳ tham gia cải cách ruộng đất, nghe “rễ cố nông” đó tố khổ, đã nổi “tính đảng” mà cưới đại “cái rễ tố láo” đó làm bạn đời và v.v… Đấy chính là nguồn gốc của sự ra đời của “phong trào Nhân văn – Giai phẩm” (đúng nghĩa là đòi làm người trở lại). Vì không muốn làm gia nô khuyển mã cho mafia đỏ Hồ chí Minh, nên tất nhiên phải bị trừng trị theo đúng võ mafia đỏ, nghĩa là làm cho sống không nổi, chết không xong.
Hệt như sau tháng 4-1975, Sài-gòn của Việt Nam Cộng Hòa đã giải độc cho biết bao người từ phía Bắc vào, thuộc đủ mọi thành phần, từ văn nghệ sỹ như Dương thu Hương, vợ chồng Lưu quang Vũ, Xuân Quỳnh; nhà thơ đầy can đảm Bùi minh Quốc; nhà trí thức “thứ thiệt” Hà sỹ Phu v.v… những người gần cả cuộc đời theo mafia Hồ chí Minh như ông Nguyễn Hộ. Và, cả Nam cả Bắc ào ào vượt biên, chẳng cứ người dân thường mà cả lực lượng chuyên chính của mafia đỏ là công an và binh lính (tất nhiên cũng có bọn được đưa đi nằm vùng), kể cả nhân sự trong cái “chính phủ” mà Lữ Phương đã mơ tưởng, như Trương như Tảng chẳng hạn. Đến mức ngụy quyền cộng sản Hà-nội phải lúng túng, lúc thì “mở cửa” lúc thì “đóng cửa” trở lại. Và chúng cũng lộ rõ bộ mặt của lũ cướp thực dân đỏ, vơ vét tài sản của nhân dân miền Nam Việt Nam, bỏ tù hàng triệu người không xét xử, hàng triệu người bị đuổi đi “kinh tế mới” (tức phát vãng). Cơ cấu xã hội và kinh tế miền Nam bị tàn phá một cách khủng khiếp. Và, chúng lại thực thi con đường của Hồ là làm nhiệm vụ “bành trướng chiến lược” của thực dân đỏ Nga-xô; xâm lược Cam-bốt. Kết quả mẫu quốc thì sa lầy ở Afghanistan và đàn em của Hồ bị chìm ở Cam-bốt. Và, quan trọng hơn cả là quan điểm của họ Hồ đối với “anh cả Nga-xô” và “anh hai Trung cộng” được sáng tỏ bằng chiến tranh ở phía Bắc với Trung cộng bằng súng đạn và chiến tranh miệng qua Bạch thư của bộ ngoại giao ngụy quyền Hà-nội do Nguyễn duy Trinh chủ biên. Cũng như năm 1978, Lê Duẩn dẫn hầu hết các bộ mặt đen đúa của chính trị bộ mafia đỏ sang Nga-xô ký hiệp ước còn tệ hơn hiệp ước Patenôte của nhà Nguyễn với thực dân Pháp. Đó là “Hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn diện” với Nga-xô, và sau đó là Nga-xô làm chủ Cam-ranh không tốn một xu và các mỏ dầu lửa ở miền Nam Việt Nam!!!
Đây là kết luận chính xác của trò đi dây của họ Hồ giữa Nga-xô và Trung cộng, cũng chư việc Hồ chí Minh chỉ định Lê Duẩn là người kế tục sự nghiệp Việt gian của hắn. Cùng với lũ người Việt mang nặng cái “uế khí Trung cộng” đó là hội Hoa kiều ở Hàng Buồm và nhân viên, giáo viên, học sinh của trường trung học Trung hoa, ồn ào mở tiệm sách, các quầy vỉa hè, bán sách báo do Trung cộng sản xuất và ảnh các đầu đà của cái “đảng Trung cộng”, lúc ấy gồm Mao, Lưu thiếu Kỳ, Chu Đức, Chu ân Lai, Bành đức Hoài v.v… và cờ Trung cộng được treo khắp nơi như để khẳng định “có ta đây” vậy.
Nga-xô không ồn ào như Trung cộng, ngoại trừ đoàn làm phim người Việt, học từ Nga về, ăn mặc lối “Tây nhà quê”, đội cái mũ vải trắng, các máy quay phim to và nặng như khẩu “bích kích pháo”, đi xe Podeba hoặc Gatt bỏ mui vải, phóng ồn ào, luôn mồm “kha-rát-sô” với “nhiét-nhiét”. Có ngụy quyền Hồ chí Minh phục vụ hết mình, nên các quầy sách lưu động, tiệm sách được bày bán đầy cờ, ảnh các đầu đà Nga-xô như Lê-nin, Stalin, Malencốp, Bulganin, Molotov, Kaganovitch, Micoian, Krúp-xcai-a (vợ Lê-nin), Jukov v.v…, và tất nhiên là phải có ảnh hai “ông rậm râu” Mác và Engels!
Y như miền Nam Việt Nam sau 4-1975, miền Bắc Việt Nam thời 1954 đó cũng bị ngụy quyền Hồ chí Minh chia rẽ bằng “dân kháng chiến” và “dân tề” (ý nghĩa như “dân ngụy” vậy). Bên “dân kháng chiến” che đậy cái nghèo, cái lạc hậu, cái thô lỗ bằng cách “tự cho mình là kẻ chiến thắng”. Còn “dân tề” thì phân hóa thành ba loại:
1) Loại nằm vùng, cơ hội (như loại cách mạng 30 ở trong Nam, sau 4-1975), cố tìm bằng được đôi “dép râu”, cái mũ lá, bộ áo màu cỏ úa, có đứa còn đi may ngay bộ “đại cán 4 túi”, tóc tai lòa xòa, không đường ngôi, tất bật đi làm cái chuyện “cơm nhà vác ngà voi”. Nhiều gia đình khổ sở vì có chồng, con, anh, em loại này. Một kiểu “thành phần thứ ba” sau này.
2) Loại an phận, nép mình, lấy “của che thân”. Phần lớn là công chức, nhà buôn. Cũng thay đổi cách mặc, áo cánh nhuộm màu gụ, trong nhà thì “đồ cũ bày ra, đồ đẹp như hoa cất vào”. Nghĩa là phải “giả nghèo giả khổ” thì mới yên thân.
3) Số rất ít, tỉnh ngộ trước cái bánh vẽ “độc lập, tự do, hạnh phúc” thì vội tìm đường chạy vào Nam, hoặc không chạy được thì tìm cách thích nghi, nằm quan sát và “hy vọng” có sự đổi đời, nhất là hy vọng ở cuộc tổng tuyển cử hai năm sau đó, như hiệp định Genève 1954 về Việt Nam qui định!!!
Vài năm sau, phần lớn người Hà-nội bị đi kinh tế mới (tức phát vãng) hoặc bị bắt cải tạo, chỉ còn lại người tứ xứ đổ về. Nhưng, cái đất Thăng-long đã cải tạo lại những người tứ xứ đó, bớt phần cục cằn, khát máu, nghĩa là giảm bớt cái “tính đảng”. Hà-nội trở thành nơi “dễ thở” hơn. Cho nên, nếu tìm hiểu về miền Bắc Việt Nam của những năm trước 1975, sau 1954, mà chỉ loanh quanh ở Hà-nội, hoặc xa nữa là Hải-phòng hay Nam-định thì chẳng khác gì cảnh “đi mua gà mà chỉ nhặt cọng lông đuôi”.
Trong cái hoàn cảnh đó, Hà-nội nổi lên cuộc “chiến ngầm” giữa “anh cả Nga-xô” và “anh hai Trung cộng”. Người miền Bắc quen dần cái cảnh đưa tin trên báo Nhân dân của ngụy quyền cộng sản Hồ chí Minh. Đó là sự cân đối tin về Nga-xô và Trung cộng. Tỷ dụ, ở trang nhất chia đôi cho thật đều: Nga-xô một nửa, Trung cộng một nửa. Không bên nào được hơn bên nào dù chỉ bằng cái vảy móng tay!
Sau đó là sự ra đời của hai tổ chức:
1. Hội hữu nghị Việt-Xô;
2. Hội hữu nghị Việt-Trung.
Nhìn vào hai hội này thì thấy rõ sự trân trọng của ngụy quyền Hồ chí Minh với mẫu quốc đỏ Nga-xô. Vì, chủ tịch “Hội hữu nghị Việt-Xô” là Dương bạch Mai, ủy viên chính thức của trung ương mafia đỏ kiêm ủy viên ban thường vụ quốc hội ngụy quyền Hà-nội. Còn cái “Hội hữu nghị Việt-Trung” thì chủ tịch là một nhân sỹ “đã bị thiến” để làm kiểng “dân chủ”. Đó là cụ Bùi Kỷ (thân phụ của ông Bùi Diễm), trước 1945 là hiệu trưởng trường tư thục Louis Pasteur, ở Hà-nội. Vì thế sự phát triển của hai cái hội này cũng có tốc độ và tầm cỡ khác nhau. Dân miền Bắc Việt Nam, ở với mafia đỏ lâu rồi, cũng biết nhận xét đôi chút. Nhìn vị trí của hai “chủ tịch” đó là người ta đã thấy “nhất bên trọng, nhất bên khinh”. Cho nên, chỉ có một bộ phận nào đó trong lưu học sinh hay cán bộ mafia đỏ là gia nhập “hội Việt-Trung”, chủ yếu ở ngành đường sắt và khu gang thép Thái-nguyên. Nó cũng còn lý do nữa là dân Việt Nam dị ứng “ba Tàu cộng” vì nó quá lố lăng, kệch cỡm, giả dối, khác lạ 100%.
Còn “hội Việt-Xô” thì phát triển ào ào, ở khắp cả miền Bắc, từ trong ngụy quân cho đến các ngành, các bộ; các trường đại học và cả một số trường trung học; các bệnh viện cho đến các nhà máy, cửa hàng. Và, các lớp Nga văn mọc như nấm. Nga văn trở thành môn học bắt buộc ở bậc trung học lẫn đại học các ngành. Ủy ban khoa học Nhà nước (ngụy quyền Hà-nội), trường đại học Bách khoa Hà-nội và Tổng cục địa chất là địa bàn độc quyền của cái gọi là hội Việt-Xô đó. Ảnh hưởng văn hóa Pháp trong hơn 80 năm thực dân Pháp đô hộ Việt Nam cũng không có chiều sâu và chiều rộng như ảnh hưởng của Nga-xô ở Bắc Việt Nam khi ấy, trong vòng chưa đầy chục năm. Tỉnh táo ngắm nhìn bức tranh miền Bắc Việt Nam sau 1954 thì thấy rõ đấy thực sự là thuộc địa của Nga-xô cả tinh thần cả vật chất. Lối sống Việt Nam, truyền thống Việt Nam hoàn toàn bị ngụy quyền Hồ chí Minh san bằng, cho phù hợp với lá cờ “đảng mafia cộng sản Việt Nam” là cờ đỏ búa liềm vàng (cũng là quốc kỳ Nga-xô). Tên và ảnh các lãnh tụ cộng đảng Nga-xô và các tài tử điện ảnh Nga nằm đầy trên vách nhà của nông dân Bắc Việt Nam. Sách, truyện của Nga được dịch và tràn ngập các thư viện chính thống đã đành, nó còn len vào các tủ sách cơ quan, hợp tác xã kể cả thủ công nghiệp lẫn nông nghiệp. Tất nhiên, tư nhân làm gì có tiền mà mua. Tiền mua sách này là lấy từ các quỹ của “công đoàn” hay của “nông hội” mà ra. Nghĩa là ngụy quyền Hồ chí Minh bóp cổ nhân dân qua các loại thuế, loại nguyệt liễm, rồi dùng một phần tiền đó vào việc “nhuộm đỏ” đầu óc người dân Việt Nam. Cán bộ ngụy quyền Hồ chí Minh coi người Nga (Nga-xô) như thánh thần, như ông chủ lớn. Chỉ lấy lại một thí dụ cụ thể về tác giả “Gửi Mẹ và Quốc hội” để chứng minh cái xun xoe như chó mừng chủ khi ấy. Bấy giờ là hè năm 1955, Nguyễn văn Trấn làm nhiệm vụ “giảng viên thường trực” của trường gọi là “đại học nhân dân” (sáng kiến của Hồ chí Minh), được một phóng viên báo Sự Thật của Nga-xô tới thăm trường. Văn võ bá quan của trường y hệt cảnh lý dịch ở nông thôn Việt Nam xưa, khúm núm đón “quan Tây” vậy. Đủ mặt từ Đoàn trọng Truyến (sau làm trưởng tiểu ban kinh tế – tài chính của quốc hội ngụy và cũng là kẻ cùng với Tố Hữu và Trần Phương đồng tác giả vở kịch “giá, lương, tiền” và cùng bị ngã ngựa); đến Trịnh Bốn (sau làm vụ trưởng vụ tổ chức và cán bộ của ủy ban khoa học nhà nước ngụy); Nguyễn khoa Minh (nguyên bí thư tỉnh ủy Quảng-ngãi, qua Nga-xô học, chưa về nước mà đã được cử giữ chức giám đốc trường đại học tổng hợp, vì “tội” làm luận án “đảng toàn dân”, theo luận điểm của Khrútxốp nên cũng ngã ngựa và Ngụy Như Kontum được lấp lỗ trống) và một số đông học trò của trường, Nguyễn văn Trấn vẻ mặt ngoan ngoãn, hai tay nắm lấy bàn tay của tên Nga-xô đó, ngọng ngịu (vì hơi móm) khen: Nào là đồng chí to con quá, trẻ quá, giỏi quá(?). Nào là đồng chí có mệt không? “Đồng chí” bị muỗi cắn ở tay rồi. Bảo y tá lấy thuốc chữa cho “đồng chí Liên-xô” ngay v.v…, trông bệ rạc, hèn hèn đến mức một số học sinh là người Hà-nội, nhìn nhau “đỏ mặt hộ”! Còn tên Nga-xô kia chắc không hiểu Nguyễn văn Trấn nói gì (vì nói tiếng Việt) nên hắn quay qua phía Đoàn trọng Truyến (tay đang cầm quyển Le Russe sans peine) nói vài câu lấp lửng, để mặc cho “đồng chí” Nguyễn văn Trấn nói chuyện với cái tay của hắn. (Đọc cuốn “Gửi Mẹ và Quốc hội”, nhớ lại hình ảnh đó cũng như nhiều việc khác, chẳng biết nói gì hơn là ngửa cổ lên trời cười khẽ ba tiếng rằng: trên đời này, ngụy quyền cộng sản đã đào tạo ra nhiều tay “nói trạng” lắm, ai ơi!!!) Lại nói về cái gọi là “hội Việt-Trung” tuy lép vế, nhưng bù lại Trung cộng có cái “hội Hoa liên” (tức liên hiệp những người Hoa ở Bắc Việt Nam) mà trái tim là trường trung học Trung hoa, lò sản xuất các trò nhố nhăng để sau này thành cái gọi là “hồng vệ binh”. Hội này cũng có tờ báo riêng là “Tân Việt-Hoa”, một thứ “lá cải” – công cụ tẩy não.
Tất nhiên cả hai cái hội nói trên có chỗ dựa vững chắc và cũng là đầu não chỉ đạo là hai sứ quán Nga-xô và Trung cộng ở Hà-nội, đều do “tướng” cầm đầu.
Cơ cấu tổ chức của cái gọi “hội Việt-Xô” như thế, nên chỉ có ngủ mê mới không thấy nó thực sự là công cụ bành trướng tinh thần Nga-xô, trong nhân dân Bắc Việt Nam, của ngụy quyền Hồ chí Minh. Mặt khác, trong tay Serbakov – viên thiếu tướng tình báo của Nga-xô, giữ chức “đại sứ đặc mệnh toàn quyền” ở Hà-nội – nó cũng là “màng lưới tình báo của Nga-xô” (hữu thức hoặc vô thức) và là một thứ tổ chức công dân búa liềm mở rộng. Nhà nghề gián điệp như Serbakov, làm sao lại không tận dụng cái công cụ đó mà “giám sát” mọi hoạt động của cái tổ chức cộng sản mafia của Hồ. Vì thế, khi Hồ đu dây giữa hai ông anh, “anh cả Nga-xô” và “anh hai Trung cộng”, để trong những năm 1961-62, thì thọt cùng Trung cộng bàn bạc, cho ra đời cái sẽ gọi là “quốc tế Mao-ít” – một thứ đảo chính vị thế lãnh đạo tối cao của Nga-xô trong thế giới mafia đỏ (tức cộng sản), cũng như việc làm ngược với nghị quyết 20 của Nga-xô và của chính ngay các nghị quyết của đại hội 3 mafia đỏ Việt Nam – thì đương nhiên Nga-xô qua tay Serbakov phải sử dụng cái công cụ “hội Việt-Xô” để uốn nắn, răn đe Hồ đừng đi quá trớn mà “lộng giả thành chân” là bỏ mẹ đời Hồ đấy. Cho nên, khi ấy mới bắt đầu có những tiếng nói mà hầu hết là thành viên của hội “Việt-Xô” đòi “thực hiện đúng đắn những nghị quyết của đại hội 3 của mafia đỏ Việt Nam”. Có nghĩa là đi đúng tinh thần nghị quyết 20 của Nga-xô mà cụ thể là “Tuyên bố chung của 81 đảng” mà Hồ và Lê Duẩn đã cùng ký năm 1960. Thế là, có thể nói cho chính xác, thì một số đảng viên có chức, có quyền ở mức tương đối với công lao của họ (bị coi là thất sủng) có thì thọt với nhau hoặc trực tiếp, hoặc qua đàn em, con cái để cùng “thống nhất” chống lại việc tách xa nghị quyết đại hội 3 mafia Việt Nam, mà cụ thể là “chống nghị quyết 9” (là nghị quyết thân Trung cộng), xin bảo lưu ý kiến. Nhĩa là muốn lật phe thân Trung cộng. Cũng xin mở ngoặc trình bày về cái gọi là quyền bảo lưu ý kiến. Theo điều lệ của mafia đỏ thì chúng lãnh đạo theo cách gọi là “dân chủ tập trung”, “thiểu số phục tùng đa số”, nhưng vẫn thấy ý mình là đúng thì vì là thiểu số, cứ phải tuân theo ý đa số đã nhưng có quyền bảo lưu ý kiến của mình. Từ ngày tổ chức mafia đỏ ra đời, núp dưới cái nón cối “đảng chính trị”, cho nên cạnh cái đống phân “dân chủ tập trung”, chúng cho ra cái bánh vẽ “quyền bảo lưu ý kiến”, nhưng thực ra không bao giờ được thi hành. Nói cho dễ hiểu, thì như trong cái gọi là hiến pháp của ngụy quyền cộng sản Hà-nội có ghi rằng mọi người được tự do lập hội chẳng hạn. Thế mà, mới ngay năm 2001 này, là thời kỳ “con tắc kè mafia đỏ” đang đổi màu tý chút cho phù hợp với môi trường chính trị thế giới hiện nay, vậy mà mấy người xin lập “hội chống tham nhũng” (để giúp “đảng”) đều được dzô tù mà lập hội!!!
Vậy thử nghĩ xem, thời kỳ của những năm 60 đó, họ Hồ đang cầm quyền mà lại có kẻ cả gan dám nghĩ khác với Hồ, tranh khôn hơn hắn thì số phận phải như thế nào? Chưa có quyền mà Hồ còn dám bán cụ Phan Bội Châu, ám hại Lê hồng Phong, Phùng chí Kiên (cũng là những đồng chí của hắn, thì bây giờ ở thế quyền uy tuyệt đối, cái gì mà hắn chả dám làm). Đến cái gọi là “cải cách ruộng đất”, tự lỗ mồm Hồ cũng phọt ra hai chữ “sai lầm”, rồi hắn sai Võ nguyên Giáp ra xin lỗi “dân”. Vậy mà mấy người khoe khôn dám nhìn thấy sai lầm của “cải cách ruộng đất” trước khi Hồ có ý kiến, mặc dù những người đó đều có tiếng tăm và đang là “bộ áo giả dân chủ” của họ Hồ, mà cả lực, cả thế đều là con số không, như luật sư Nguyễn mạnh Tường, bộ trưởng tư pháp Vũ đình Hòe, thứ trưởng văn hóa Đỗ đức Dục v.v… Còn bị Hồ thẳng tay vứt vào sọc rác cho đến hết đời luôn, và Hồ còn vứt luôn cả bộ tư pháp lẫn khoa luật cho “tụi bay hết nói lý với luật”, làm bài học cho tất cả những ai sống dưới sự cai trị của họ Hồ. Tiếc rằng còn nhiều đệ tử của Hồ vẫn mơ hồ. Lấy thí dụ: Mới tháng này thôi (12-2001), hai chục bà nông dân ở miền Nam Việt Nam đã kéo nhau ra Hà-nội biểu tình đòi ruộng đất. Họ dám làm vậy là có nhiều lý do, nhưng có một lý do quan trọng là dựa vào dư luận xã hội, dư luận quốc tế, đặc biệt là cái loa chính nghĩa của cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Vì thế mới dám đòi hỏi quyền lợi của mình.
Cũng như thế, cái nhóm chống nghị quyết Mao-ít của Hồ, đều là những người “làm chính trị” chuyên nghiệp là đàng khác, đương nhiên họ phải tìm chỗ dựa trước khi chống nghị quyết 9! Ngay câu chuyện về Lê Liêm (nếu là có thực) cũng tìm Hồ làm chỗ dựa trước khi vào họp mới dám đưa ý kiến chống nghị quyết 9.
Vậy cái nhóm đó là ai? Xin thưa rằng, đó là Dương bạch Mai (coi như người cầm đầu), Ung văn Khiêm, Bùi công Trừng, Lê Liêm, Nguyễn văn Vịnh, Đặng kim Giang, Hoàng minh Chính, Minh Tranh v.v…
Dương bạch Mai, ủy viên chính thức của trung ương mafia đỏ, ủy viên ban thường vụ quốc hội ngụy quyền Hà-nội, chủ tịch hội Việt-Xô, kẻ chỉ riêng trong những năm 1945-46, với cương vị phụ trách công an miền Nam, hắn đã giết biết bao người Việt Nam yêu nước; hắn đã tổ chức kế hoạch giết tập thể đồng bào miền Nam theo các đạo Cao-đài, Hòa-hảo, hàng chục ngàn người. Điển hình là mồ chôn tập thể hàng 4000 chức sắc và tín đồ Cao đài ở Quảng-ngãi, cũng như các mồ tập thể khác tại Trà-cao (Tây-ninh). Một con người như Dương bạch Mai thì dân chủ chỉ là chuyện chú Cuội.
(Còn tiếp)
(Theo Web Hồn Việt - http://hon-viet.co.uk/)
jeudi 14 juin 2007
Inscription à :
Publier les commentaires (Atom)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire