Hồ Chí Minh không có công mà nặng tội với nước - NTB
Nguyễn Tường Bá Tác gỉa không giử bản quyền. Yêu cầu phổ biến rộng rải
Hồ Chí Minh không có công mà nặng tội với nước, với tất cả các đảng khác, với tất cả tôn giáo, làm thụt lùi nhiều thế kỷ, về mặt nhân quyền văn hóa xã hội, vĩnh viễn lỡ nhiều dịp phát triển Việt Nam thế kỷ vừa qua và hậu quả vẫn đè nặng ngày nay.
Ðể đừng hiểu sai viết lầm về Hồ Chí Minh, trước tiên người ta cần biết 3 điều căn bản tổng quát:
Thế Chiến Hai Và Chiến Tranh Lạnh, Lực Lượng Khởi Đầu Của Việt Minh Cộng Sản và Huyền Thoại Hồ Chí Minh.
Thế Chiến Hai Và Chiến Tranh Lạnh
Tại Âu Châu, Quân Quốc Xã Ðức xâm chiếm các nước có thuộc địa: Pháp, Hòa Lan, Bỉ và tàn phá Anh Quốc. Tại Á Châu. Quân phiệt Nhật đánh tan các thế lực thuộc địa tại Hồng Kông, Ðông Dương, Phi Luật Tân, Miến Diện, Mã Lai, Singapore, v. v…trước khi thua trận, Nhật đã trả độc lập cho các nước Ðông Nam Á. Hai thế lực mạnh: Mỹ và Nga đối nghịch trong chiến tranh lạnh cổ võ và chủ trương trao độc lập trên thế giới. Nhờ vậy, phong trào độc lập thành tất nhiên. Nhiều nước độc lập dễ dàng như Ấn Ðộ (1946) Phi Luật Tân (1946) Nam Dương (1949) Mã Lai, Miến Ðiện (1947) Nam Bắc Hàn (1945) Có nước còn không muốn độc lập như Djibouti, Trung Hoa dưới Tưởng cũng như Mao đều không thấy ích lợi đòi Hồng Kông Ma Cao trước thời hạn.
Riêng tại Việt Nam, một ngày sau khi diệt quân đội Pháp (6-3-45) quân Nhật đã trả (nói cho đúng là “cưỡng bách”) Việt Nam độc lập và chính phủ Trần Trọng Kim cũng là chính phủ Việt Nam độc lập đầu tiên kể từ khi bị Pháp xâm chiếm và các con tem bưu điện hồi đó là chứng minh cụ thể theo thế giới sử. Lực Lượng Khởi Đầu Của Việt Minh Cộng Sản Sở Công Tác Chiến Lược Hoa Kỳ (O. S. S) nay là C. I. A, đã giúp Việt Minh Cộng Sản năm 1944-1945: 5000 (năm ngàn) vũ khí với đạn dược cho số vũ khí đó, huấn luyện tại chiến khu cho bộ đội Việt Minh và danh nghĩa quân đội đồng minh (Sedgwick Tourison, Archimedes L. A. Patti).
Ðó là lực lượng tuyệt đối thời điểm 1945 vì chính phủ Trần Trọng Kim cầm quyền chỉ chú trọng về giáo dục, cứu đói, không chú trọng về quân sự, chỉ có lính khố đỏ mỗi nơi vài chục người võ trang súng bắn viên một của Pháp đã cổ, không có súng lục (chỉ Hoa Kỳ, Pháp mới có) mà súng nầy lại cần trong chiến tranh khủng bố. Khi quân Việt Minh cướp được chính quyền xong họ mới đi tìm Hồ Chí Minh đang lang thang trong rừng vài ngày sau mới gặp (Nguyễn Hưũ Ðang, Nhân Văn Giai Phẩm). Sau vài ngày Việt Minh đảo chính tại Hà Nội, Lê Khang Đỗ Ðình Ðạo và mươi đảng viên Việt Nam Quốc Dân Ðảng (VNQDD) với vài khẩu súng săn của đồn điền Đỗ Ðình Ðạo cũng đã cướp được chính quyền ở Vĩnh Yên. [ Hoàng Văn Ðào] cũng vì sợ lực lượng mạnh tuyệt đối của Việt Minh mà vua Bảo Ðại thoái vị và chính phủ Trần Trọng Kim không dám chống cự mặc dầu quân Nhật đề nghị sẵn sàng dẹp loạn (Trần Trọng Kim, Nguyễn Xuân Chữ).
Huyền Thoại Hồ Chí Minh
Ở trong nước, Huyền Thoại Hồ Chí Minh được dàn dựng theo kiểu mẫu lãnh tụ Nga Tàu, quy mô và độc đoán, coi Hồ Chí Minh như thánh, đạo đức anh minh. Tuy nhiên huyền thọai ở Việt Nam được đẩy xa hơn, thêm nhiều gian dối trắng trợn và rẻ tiền.
Thí dụ: Hồ Chí Minh không vợ, sống độc thân. Mặc dầu không hoang dâm như Mao Trạch Ðông, nhưng Hồ Chí Minh rõ rệt nhiều vợ hơn Mao. Ðủ mọi giống: Trung Hoa, Việt, dân tộc thiểu số, da trắng (Nga, Pháp). Ðặc biệt có sự biến đổi tâm tính từ một thiếu niên ngây thơ ngờ nghệch tán tỉnh cô đầm Bourdon không thành công (Nguyễn Thế Anh); Thân nhân tiệm hình Khánh Ký Paris còn cho biết các sinh viên du học tại Pháp khi về nước đã bàn giao các cô đầm để lại cho Hồ Chí Minh nhưng Hồ Chí Minh đã lúng túng thất bại. Giai đoạn ở bên Trung Hoa hoàn toàn khác, sau khi huấn luyện tại Nga làm việc Hoa Kỳ trong phái đòan Nga Borodin và cùng với Lâm Ðức Thụ bán nhà cách mạng Phan Bội Châu lấy 10 vạn đồng Ðông Dương. (Richard Nixon, No More Việt Nams) Hồ Chí Minh đã lão luyện mua chuộc bà mẹ cô Tàu Tăng Tuyết Minh, ngọai giao anh cô nầy và cưới Tăng Tuyết Minh vào tháng 10 năm 1926 trong một hôn lễ rất linh đình có cả vợ chồng Chu Ân Lai tham dự (Huang Zhen); Nhưng năm 1934, Hồ Chí Minh và Nguyễn Thị Minh Khai cùng tham dự Hội Nghị Quốc Tế Cộng Sản tại Moscow với danh nghĩa vợ chồng chánh thức (Sophie Quinn Judge), đây là một hôn phối chính trị vừa có lợi cho Nguyễn Thi Minh Khai lấy được cán bộ Moscow, có lợi cho Hồ Chí Minh có người vợ là đại biểu phụ nữ Ðông Dương duy nhất. Hồ Chí Minh lúc nầy đang bị xuống cấp và có nguy cơ bị thanh trừng. Sau năm 1937 Minh Khai về nước mới lấy Lê Hồng Phong. Ghi nhận năm 1930, Minh Khai đến làm việc với Hồ Chí Minh thì quan hệ với Tăng Tuyết Minh chấm dứt (William J. Duiker), Hồ Chí Minh ra tòa án Hồng Kông, Tuyết Minh có đến xem nhưng không nói chuyện và cũng không để cho Hồ Chí Minh nhìn thấy. (Huang Zhen) lúc bị bắt tại Hồng Kông Hồ Chí Minh lại ở cùng với một phụ nữ Tàu khác. Ðây là giai đọan Hồ Chí Minh bắt đầu già dặn, tôi luyện trong tình trường và lão luyện trong việc xử dụng quản trị phụ nữ trong đời tư và nhất là trong mưu tính chính trị. Ðiều nầy do kết quả chủ nghĩa cộng sản học tập ở Moscow, hay do sự ăn chơi cùng Lâm Ðức Thụ nhờ dư tiền bán Phan Bội Châu hay do bản tính xấu của chính mình, hay do cả 3 yếu tố? Có ảnh chụp một phụ nữ đẹp ngồi chung với các sĩ quan O. S. S đặc biệt là vị trưởng toán Archimedes L. A. Patti và Hồ Chí Minh trong chiến khu Việt Bắc 1944-1945. Archimedes L. A Patti chối là không bị mỹ nhân kế nhưng không hiểu phụ nữ nầy có mặt trong chiến khu làm gì? Phái đoàn O. S. S nầy lại thiên vị cho Việt Minh rất quá đáng, kỳ thị không những kháng chiến Pháp mà còn kỳ thị mọi phe quốc gia. Khi về Hà Nội cầm quyền 1945-1946, Pháp có đưa một số cô đầm từ Pháp sang gặp Hồ Chí Minh, trong đó có cô Brière chụp ảnh chung với Hồ Chí Minh. Nhưng Hồ Chí Minh không mắc mỹ nhân kế.
Trong trận điện biên phủ, nhiều đêm Võ Nguyên Giáp hủ hóa HCM không thể không biết vì ở chung môt chổ. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ khi ra bưng cũng được thỏa mãn tình dục đầy đủ vì điều nầy giới luật gia tại Miền Nam thập niên 1950 đều biết bệnh đa dâm này của Thọ và chính Thọ cũng đang bị dính líu trong một vụ hiếp dâm tại Nha Trang trước khi đi bưng. Ðể tái kết thân với Chu Ân Lai vì lỗi HCM đã né trốn không tham gia Vạn Lý Trường Chinh, Hồ Chí Minh thân thiết tán tỉnh vợ Chu Ân Lai, một phụ nữ xâu xí và kết quả là được Chu Ân Lai nâng đỡ, lúc chụp hình với Mao luôn luôn được Chu Ân Lai cho đứng cạnh. Cao điểm Hồ Chí Minh với phụ nữ là thủ tiêu Nông Thị Xuân năm 1957 (Hồ Chí Minh lúc nầy 65 tuổi và cô Xuân chỉ 20) sau khi ăn nằm và có con với cô Xuân từ ít nhất 1952. (Vũ Thư Hiên) và cô Xuân ngờ nghệch xin Hồ Chí Minh cho công khai tương quan.
Tính toán sai lạc của Hồ Chí Minh trong việc dùng phụ nữ là ôm hôn bà Sokarno tại hội nghị Bandung, Nam Dương, xứ hồi giáo, việc ôm hôn nầy gây câm phẫn bất lợi ngoại giao.
Thí dụ: Hồ Chí Minh ở nhà sàn.
Ký giả Oliver Todd gọi nhà sàn nầy là của người gác vườn (vì xây dựng lên trong khuôn viên dinh thự thực dân Pháp xưa), nhưng dân Hà Nội oái ăm gọi là nhà sống không ở được. Không làm việc và chỉ chết mới đem xác về vì nhà sàn thiếu chỗ đi vệ sinh, công sản cũng nghĩ đến điều đơn giản này nhưng thực hiện lại khó vì dung cầu giật thì quá văn minh (thời gian 1969 tại Bắc Việt) và dùng cầu đổ thùng thì quá buồn cười với khách ngoại quốc, dù sao “nhà sàn” nầy thiếu tiện nghi truyền thông cho một nguyên thủ bề bộn trong thời chiến.
Ðiều quan trọng không phải Hồ Chí Minh được ở dinh thự hay ở nhà sàn. Bác sĩ Lý, bác sĩ riêng của Mao Trạch Ðông đã tả rỏ rệt cảnh Hồ Chí Minh thèm thuồng (khiến ông Lý nầy phải thương hại) trước những tiện nghi mỹ lệ của các dinh thự tại Bắc Kinh.
Thí dụ: Hồ Chí Minh ăn hút
Các ký giả ngoại quốc nhận xét Hồ Chí Minh hút thuốc thơm ngoại quốc chứ không phải thứ nội hóa nhãn Điện Biên Phủ xanh đỏ. Nhưng thời gian trước 1945 Hồ Chí Minh vẫn hút thuốc thơm (Philips Moris) nhưng để trong bao Melia vàng nội hóa. Giáo sư khả kính Vũ Khắc Khoan kể lại đã được Hồ Chí Minh khoái chí cười cho một điếu thuốc Philis Moris lại để trong bao Melia nội hóa, trong một chuyến du hành rõ ràng láu cá ranh vặt. Các cán bộ Quốc Dân Ðảng ngay từ năm 1945 đã báo cáo Bắc Bộ Phủ Việt Minh hằng ngày lấy thức ăn từ khách sạn Métropole ở bên kia đường, thức ăn Pháp “cao cấp” nhất Ðông Dương. Suốt thời gian 1954-1975 phần hàng ăn của Métropole vẫn sống mạnh trong khi phần khách sạn bỏ hoang phế, Hồ chí Minh và các thân cận nghiền cơm Pháp. Vua chúa hưởng lạc vốn thông thường, họ có phải dấu diếm cũng vì chính trị, nhưng gian dối lường gạt là điều hiếm có và đi cả đến chỗ sát nhân là điều hi hữu. Sau khi Hồ Chí Minh chết huyền thọai trên không giảm mà lại tăng thêm:
Thí dụ 1. Ngày chết của Hồ Chí Minh đúng vào ngày 2 tháng 9, ngày “Quốc Khánh” liền được sửa lại là ngày 3 tháng 9. Nhưng sau đó sự thật lộ ra nên các tài liệu sau nầy tránh nhắc đến ngày chết của Hồ Chí Minh, chỉ để năm thôi. Hậu quả là Hồ Chí Minh không có ngày giỗ.
Thí dụ 2. “Xây Lăng” và ướp xác. Xây mộ rất nguy nga và ngay trong thời chiến và các xác được ướp theo mẫu Nga Xô. Nhiều quân nhân bị bom chết trong lúc lấy gỗ trong rừng.
Thí dụ 3. “Cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh” Hồ Chí Minh ít khi nói thật, nhưng khi nói thật: “Tôi không có tư tưởng gì, tất cả những gì đã do Stalin, Mao Trạch Ðông nghĩ ra” thì các hậu duệ Hồ Chí Minh không tin (!) Giáo sư Sophie Judge nhận xét: Cho đến hết sự nghiệp của ông, Hồ chỉ là một người thực hành thỏa hiệp về chính trị, tạo thế liên hiệp hơn là một người chuyên về lý thuyết và ý thức hệ. (Ðại họcYale, Connecticutt). Nếu đem so sánh với các lãnh tụ cộng sản thế giới thì Hồ Chí Minh thua kém Mao Trạch Ðông và Kim Nhật Thành (Bắc Hàn) về mặt tư tưởng; Mao có tư tưởng “cách mạng văn hóa” và Kim có “tự cường” (Juche), một thứ tổng hợp Mác xít và quân chủ Á Ðông. Hồ cũng không làm được như Ti Tô, người trung lập đứng ngoài tranh chấp Nga Mỹ. Hồ cũng đã dự hội nghị trung lập Bandung 1955 có lẽ thử trung lập nhưng không làm nổi vì không khả năng ăn nói như Nehru và các lãnh tụ khác. Hồ giống Fidel Castro ở điểm nô lệ Mác Xít, thiếu khả năng kinh bang tế thế nên lấy chiến tranh đánh thuê làm lẽ sống. Chỉ CSVN mới có cả một binh chủng đặc công, kỷ lục thế giới về chiến tranh khủng bố.
Hàng ngàn trang Hồ Chí Minh Toàn Tập đọc rất chán với người có trình độ văn hóa vì lập luận một chiều: cộng sản luôn luôn tốt, tư bản luôn luôn xấu. Ca tụng Mác Xít như Sách Ước muốn gì cũng được. CSVN khoe Hồ Chí Minh có công phổ biến chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam.
Sai; công nầy do Trương Tửu, Ðặng Thế Mai, Tạ Thu Thâu. Hồ không bao giờ phê bình hoặc giải thích chủ nghĩa cộng sản. Hồ chỉ là người bắt chước các chế độ Nga Tàu cộng đã làm. Ðem áp dụng một cách máy móc tựa như Monkey sees Monkey does. Hồ chẳng bao giờ quan tâm, thắc mắc, suy nghĩ về các vấn đề tư tưởng. “Cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh” chỉ là bóp méo ngôn ngữ, bịp bợm của đám hậu bối.
Không có “Cái Gọi Là Tư Tưởng Hồ Chí Minh”, điều người ta phải bàn là đầu óc Hồ Chí Minh. J. H. Roy, cộng sản Ấn, đồng môn với Hồ Chí Minh từ 1924 ở Moscow đã cho biết ngay từ thập niên 1950 về cái đầu óc của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh học hành không xuất sắc, kém cỏi trong các đề tài thảo luận, thậm chí đến nỗi không biết lập luận. J. H. Roy ngạc nhiên tại sao Hồ lại thành công tại Việt Nam. Câu trả lời cho J. H. Roy là Hồ Chí Minh không thông minh, Hồ chỉ khôn vặt. Ðể đo thông minh ngày nay ta có chỉ số thông minh (I Q), tuy nay không thể áp dụng với Hồ, nhưng ta có thể đoán chắc là nếu đo IQ (tỷ số thông minh) vì Hồ không biết lập luận, không biết toán và khoa học nên số tỷ lệ thông minh của Hồ khó mà bằng mức trung bình. Nhưng Hồ có thể thành công vì các điều sau:
-Hồ có khiếu ngoại ngữ, biết nói nhiều thứ tiếng Pháp, Anh, Nga, Quảng Ðông; tuy nhiên Hồ không viết Pháp văn, Nga văn khá, chữ Hán thì chỉ viết được thư từ thông thường. Biết nói Anh ngữ là một lợi khí hiếm có vào thời đó và chính nhờ Anh ngữ mà Hồ chinh phục được người anh cô Tăng Tuyết Minh vốn là sinh viên du học Hoa Kỳ, đặc biệt là mua chuộc và lèo lái các nhân viên tình báo Hoa Kỳ O. S. S
Hồ có óc thực tế và điều nầy được C. S. V. N đề cao. Ðừng tưởng lầm lẫn với tinh thần thực tế phóng khoáng vượt thóat giáo điều Mác xít, kiểu như “Mèo trắng, mèo đen đều bắt chuột” của Ðặng Tiểu Bình. Óc thực tế kiểu Hồ Chí Minh vị kỷ duy vật Mác xít cứng nhắc và chỉ ranh vặt.
[Hồ ích kỷ] Khi còn hàn vi Hồ đã từng vì tình gia đình viết thư xin quan thuộc địa cho cha phục chức và nhờ gởi tiền cho cha; nhưng khi lên ngôi cao Hồ chỉ tiếp người chị ruột một lần và nói những gì khiến cho người nầy khóc bỏ ra về và từ đó không ai trong gia đình Hồ còn đến quấy nhiểu Hồ nữa và Hồ cũng không hỏi thăm giúp đở gì gia đình nghèo nầy. Nói cho đúng Hồ có môt lần viết thư chia buồn nhân đám tang mà dụng tâm chỉ để quảng cáo cho tiếng tăm cá nhân. Với người vợ cả chính thức Hồ thủ tiêu Lâm Đức Thụ người bạn chơi bời và mối lái xưa, cắt đứt mọi liên lạc tai tiếng có vợ và vợ người Tàu. Thủ tiêu Nông thị Xuân người đã có con với Hồ nhưng khờ khạo muốn công khai hóa tương quan nầy, các thân nhân của cô Xuân biết chuyện đều cũng bị thủ tiêu.
Hồ không yêu nước theo nghĩa truyền thống hàng nghìn năm Việt: yêu nước là yêu dân. Trong tim Hồ chỉ có cá nhân Hồ và Ðảng cộng sản; không có chỗ cho người dân. Suốt cuộc đời của Hồ, việc thiện duy nhất là ngỏ ý sẽ miễn thuế cho dân nếu hết chiến tranh. Thích Quảng Ðộ than rằng CSVN quá ác và ngay các trẻ thơ Việt thường rù rì lén chỉ cho nhau râu Hồ Chí Minh hiện hình ra “cái đầu lâu”.
Hồ không có tinh thần tự cường độc lập. Hồ là người Việt duy nhất từng muốn và đã làm tay sai cho hầu hết các thế lực ngoại quốc tại Việt Nam, Pháp (Xin học trường thuộc địa) Nga Sô (Làm cán bộ có lương nhiều chục năm) Trung Cộng (thân tín của Beria Trung Cộng Khang Sanh) Trung Hoa Quốc Gia (Phục vụ cho 2 tướng Trương Phát Khuê và Tiêu Văn) Hoa Kỳ (Phục vụ cho O. S. S với bí danh Lucius). Tay sai đắc lực tận tuỵ mà các quan thầy đều hài lòng và đặc biệt tiếc rẻ nếu đã không còn dùng Hồ nữa (Archimedes L. A Patti, Jean Sainteny).
Hồ có tài gây cảm tình cá nhân, tạo ấn tượng tốt trong đám đông, nhưng cũng là người rất vong ân bội nghĩa như đối với gia đình và các ân nhân: Chủ nhân tiệm hình Khánh Ký Paris (Ls Trần Tấn Việt), Lâm đức Thụ v. v. . . Hồ đa nghi và rất ghen ngay lúc tuổi đã già, chính “Beria” Trần Quốc Hoàn biết rỏ điều nầy và lợi dụng để thuyết phục Hồ cho phép thủ tiêu cô Nông Thị Xuân (Vũ Thư Hiên).
Thân Thế:
Hồ là nhân vật mà thân thế đã bị sửa chữa bịa đặt quá nhiều do chính Hồ và cả các thân cận hậu huệ nên rất mù mờ khó mà tìm ra sự thật và có thể coi là không có thân thế.
Hồ có cả thảy 145 bí danh và tên, theo Antatoli Sokolov và theo Trần Anh Tuấn là 150 trong đó có đến 62 bí danh dùng để viết sách báo ca tụng chính mình như Trần Dân Tiên, T. Lan v. v… lúc thì lấy tên đàn ông, lúc tên đàn bà, lúc thì họ Hồ, họ Lê, họ Nguyễn và Trần, lúc thân cận như Bác, lúc bí hiểm như X. Y. Z. (Thế kỷ, May 1999) Ðặc biệt Hồ có bí danh dùng riêng với tình báo Nga Xô là “Lin” và tình báo Hoa Kỳ O. S. S là “Lucius, nhân viên số 19” (Back Fire, Loren Baritz trang 46)
Tất cả các tên và bí danh của Hồ đều không nổi tiếng và không đáng chú ý trừ 2 tên: Nguyễn Aí Quốc và Hồ Chí Minh. Tên Nguyễn Ái Quốc (hay Quấc) là bí danh chung của 5 người chống Pháp: Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Phan Chu Trinh, Nguyễn An Ninh và Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) mà giới Việt Kiều Paris gọi là Ngũ Long. Tên Nguyễn Ái Quốc không do Hồ nghĩ ra vì lẽ đơn giản là Hồ Chí Minh là kẻ đến sau gia nhập nhóm này và cũng là người trẻ nhất.
Các bài viết của nhóm cũng không do Hồ viết vì trình độ Pháp ngữ của Hồ kém, tuy chỉ một mình Hồ ngang nhiên lấy xử dụng tên này để khoe khoang cho đến khi Hồ bán Phan Bội Châu cho Pháp, tên nầy trở thành mang tiếng xấu thì Hồ mới chấm dứt đội tên Nguyễn Ái Quốc.
Tên Hồ Chí Minh vốn là một bí danh cũ của Hồ Học Lãm, một người Việt lưu vong ở Trung Quốc chết năm 1942 (Chánh Ðạo, Niên Biểu Nhân Vật Chí Việt Nam). Chí Minh là một tên rất phổ thông ở bên Tàu và họ Hồ cũng thế, cho nên rất nhiều người Trung Hoa có cái tên Hồ Chí Minh. Theo Vũ Hồng Khanh người đã đem Hồ Chí Minh ra khỏi tù thì là Nguyễn Tất Thành đã mua một căn cước của một hành khất vô thừa nhận mang tên Hồ chí Minh và xử dụng giấy này khi bị bắt, đến khi thả ra phải mang tiếp căn cước này.
Ðiều khôi hài là nhiều tác giả, có cả tự điển đã diễn nghĩa ca tụng “Hồ Chí Minh” có nghĩa là người sáng suốt, thức tỉnh khi mọi người còn ngủ. Chính họ Hồ tự khai ít nhất 5 năm sinh khác gồm 1890 (Trần Dân Tiên) 1891 (Yên Sơn, bí danh khác của Hồ) 1892 (Trong đơn xin học trường thuộc địa Marseille Pháp) 1894 (Khai với sở cảnh sát Paris) 1895 (Khai với sứ quán Nga Xô Berlin để đi học). Tìm hiểu năm nào đúng là việc vô bổ và chúng ta chỉ cần ghi nhận rằng khi còn trẻ đi du học thì khai trẻ hơn và khi về nước lại khai già hơn, tất cả là do nhu cầu thực tế và sự khôn vặt của Hồ; chẳng lẽ năm 1945 xưng là cha già dân tộc, là cụ là bác mà lại sanh 1895 mới chưa đầy 50 tuổi thì coi cũng kỳ và khi du học phải khai trẻ để tỏ ra mình xuất sắc.
Trước ngày quân đội Pháp đổ bộ lên cảng Hải Phòng. CSVN sợ phản ứng của dân chúng nên đã bịa đặt ngày 19 tháng 5 là ngày sinh nhật Hồ Chí Minh kêu gọi dân Hải Phòng treo cờ mừng ngày “sinh nhật”; trong khi chúng giải thích với thực dân Pháp là dân treo cờ thỏa thận cho quân Pháp trở lại miền Bắc Việt Nam. Ngày sinh nhật 19-5 là một ngày “chính trị” chẳng phải là ngày thật và mục đích là đón cao uỷ Pháp D’Argenlieu cùng quân đội Pháp đổ bộ lên Bắc Việt (Hoàng Văn Chí, Từ Thực Dân đến Cộng Sản).
Ngày chết của Hồ trùng với ngày Quốc Khánh nên bị sửa thành ngày 3 tháng 9. Sau ít lâu bị lộ nên sửa lại cho đúng nhưng trong các tài liệu sau đó CSVN tránh ghi ngày chết mà chỉ ghi năm chết của Hồ, như ngụ ý sợ dân chúng ăn mừng nhân dịp Hồ chết. Hồ có thân thể mặt mũi xấu mà còn có thể gọi là cổ quái gian ác nếu là hình chụp trung thực và nếu là hình sửa thì thành tốt tướng hiền lành, nhưng nhìn kỷ bộ râu dê thấy có hình đầu lâu. Tất cã các hình do CSVN phổ biến đều là hình sửa chữa, hình giả.
Sự Nghiệp:
Hồ là con một tri huyện Nam Triều bị cách chức, vị này có quen biết nhà cách mạng Phan Châu Trinh. Toàn gia đình chống Pháp và không xa lạ gì với phong trào Ðông Du Phan Bội Châu. Tuy nhiên Hồ năm 1911 đã chọn con đường tiến thân khác, bằng cách xin làm quan với thực dân Pháp ngay khi xuất ngọai đến bến Marseille, Pháp (Richard Nixon, No More Việt Nams). Ðừng lầm lẫn với con đường Tây Du, xuất ngoại mưu cầu mở mang dân trí của Phan Chu Trinh. Hồ xin làm việc cho Nga Xô; rõ ràng Hồ có căn cơ làm tay sai vì sau đó Hồ theo Khang Sinh “Beria Trung Cộng”; tướng Trương Phát Khuê khen Hồ là biết phục vụ tốt, tướng Tiêu Văn khen là Hồ đã tỏ ra hối lỗi vì theo Cộng Sản, theo tình báo Hoa Kỳ O. S. S.
-Năm 1925, Hồ đã bán Phan Bội Châu, một nhà cách mạng chống Pháp hàng đầu lấy 10 vạn đồng (Richard Nixon, No More Vietnams).
-Năm Ất Dậu, 1945 tại Bắc Việt đã xẩy ra nạn đói đã do nhiều nguyên nhân: Mất mùa, do thực dân Pháp thu thuế cao, quân Nhật bắt trồng đay và bom đạn của phi cơ Hoa Kỳ. Tuy nhiên bom đạn Hoa Kỳ là nguyên nhân thiết yếu vì đường tiếp tế gạo ở trong Nam không chở gạo ra Bắc, gạo trong Nam thừa và rẻ đến nỗi đốt máy xe lửa và gạo ngoài Bắc đắt đến mức gấp 40 lần gạo trong Nam, hậu quả là dân quê nghèo chết đói khoảng 2 triệu người. Nạn đói chấm dứt khi Hoa Kỳ ngưng ném bom vào thời điểm Nhật đầu hàng. Sở dĩ bom đạn Hoa Kỳ năm 1945 hữu hiệu là nhờ tin tình báo và sự chỉ điểm của CSVN do Hồ lãnh đạo; Cơ quan O. S. S có thể quên không quan tâm đến tình trạng dân quê miền Bắc sẽ đói. Nhưng Hồ chắc chắn sẽ biết hậu quả việc cắt đường tiếp tế gạo Nam Bắc nhất là khi báo chí lúc đó loan tin bác sĩ Vũ Ngọc Anh bộ tưởng y tế xã hội và đoàn cứu tế mang gạo đã bị chết vì bom đạn phi cơ Hoa Kỳ trên đường công tác. Ngược lại Hồ còn lợi dụng nạn đói trong mục tiêu sách động quần chúng nổi dậy và ngay cả khi đã cướp được chính quyền Hồ còn lấy tiền trong quỹ cứu đói lạc quyên do chính phủ Trần Trọng Kim gom chung với Quỹ Tuần Lễ Vàng lạc quyên do chính phủ Hồ Chí Minh lạc quyên để hối lộ các tướng Tàu sang giải giới quân Nhật. Hồ tay đã nhúng chàm nên Cộng Sản Việt Nam không dám mở miệng đòi bồi thường về nạn đói đối với Nhật và Hoa Kỳ vốn là 2 nước giàu có và trọng trách nhiệm.
Ngày 9/3/1945 Nhật đảo chính Pháp và trả độc lập cho Việt Nam, ngày 11/3/1945 vua Bảo Ðại tuyên ngôn độc lập và thành lập chính phủ Trần Trọng Kim. Chính phủ đoản mệnh cầm quyền 5 tháng nhưng đã làm các bước căn bản đáng kể cho nền giáo dục. Hồ đảo chính chính phủ Trần Trọng Kim và ngày 2/9/1945 lại ra tuyên ngôn độc lập lần thứ hai.
Thực dân Pháp hay Tàu khi cai trị đã đem lại văn minh của họ, nhưng CSVN vì tầm văn hóa thấp (Hà Sĩ Phu) CSVN đã làm ngưng bước tiến văn minh của Việt Nam từ ngày 2/9/1945. Boris Yelsin coi nước Nga “tái sinh” và Nhất Linh Nguyễn Tường Tam coi nước Việt “mất nước” (di chúc 7/7/1963 Nhất Linh Nguyễn Tường Tam), dân Việt thành nô lệ thấp kém cho chính người nước mình, một chế độ bóc lột hơn thực dân Pháp, mức chênh lệch giữa thống trị và bị trị lớn hơn, nhân quyền bị vi phạm nhiều hơn và ngay cả tự do tôn giáo như thời Pháp thuộc cũng không còn.
Chiến tranh Việt Pháp chỉ xảy ra khi quân Pháp trở lại Việt Nam sau thế chiến 2, ở miền Nam nhờ quân Anh ngầm giúp cho đổ bộ, nhưng tại miền Bắc do Hồ chính thức mời bằng Hiệp Định 6-3-1946. Hồ giãi thích gian dối là chịu đựng Pháp còn hơn là phải chịu đưng Tàu, mặc dầu Hồ biết rõ Tưởng Giới Thạch tại hội nghị Yalta đã từ chối gợi ý của F. Roosevelt về việc để Tàu chiếm đóng Việt Nam và trên thực tế quân đội của Tưởng còn bận chống quân Trung Cộng tại Mãn Châu. Nguyễn Tường Tam, bộ trưởng ngoại giao, phản đối và từ chức ngày 6-3-1946. Lý do Hồ đón quân Pháp là để đánhh dẹp các chiến khu của quân quốc gia với sự hỗ trợ pháo binh và chiến xa của Pháp (Richard Nixon, No More VietNams).
Ngày 6-3- 1946 có thể coi là ngày bắt đầu cuộc chiến Việt Nam lần I, hoặc cụ thể hơn là ngày 19 tháng 5 năm 1946 ngày Hồ ra lệnh cho dân chúng treo cờ mừng sinh nhật của Hồ để luôn thể đón quân Pháp đổ bộ lên Hải Phòng Bắc Việt. Đáng lẽ CSVN bị tiêu diệt nhưng không ngờ Trung Cộng thắng chiếm lục địa năm 1949 và cứu CSVN, nhưng tội cõng rắn cắn gà nhà, phản quốc của Hồ đã tỏ rõ. CSVN và Hồ khoe thắng Pháp và dứt điểm với trận Điện Biên 1954.
Khi Trung Cộng chiếm lục địa 1949 và khi Anh Hoa Kỳ từ chối hỗ trợ cho nỗ lực chiến tranh của Pháp tại Việt Nam sau chiến tranh Triều Tiên 1952 thì Pháp đương nhiên phải thua. Không có trận Điện Biên Phủ Pháp cũng thua và trận Điện Biên Phủ chỉ là một trận thí quân không cần thiết. Pháo binh quyết định trận Điện Biên Phủ (trừ khi phi cơ Hoa Kỳ chịu lâm trận). Đại tá Piroth chỉ huy pháo binh Pháp tự vận ngay đợt pháo đầu tiên khai hỏa, pháo binh Trung Cộng cho CSVN phần lớn chở đến tận chỗ do quân xa Trung Cộng chuyên chở và do Trung Cộng bắn hộ khi cần; Điều thấy rõ là tương quan tớ chủ giữa phái đoàn CSVN và phái đoàn Trung Cộng tại Hội Nghị Genève. Võ Nguyên Giáp được đề cao là người chiến thắng, nhưng Trung Cộng dần dần tiết lộ vai trò then chốt của các tướng Tàu và vai trò của Võ chỉ là trình diễn, nhất là trong lúc lâm trận Võ mổi đêm đều phá trinh một cô thiểu số (Ls Lê Sĩ Giai)
Kết quả trận Điện Biên Phủ cho đảng CSVN quyền cai trị miền Bắc Việt Nam (miền Nam Việt Nam đã được Pháp trả độc lập cho vua Bảo Đại từ 1948). Nhưng dân Bắc chịu đựng ách cộng sản hà khắc và bắt đầu với cải cách ruộng đất ăn cướp tàn ác mà trong lúc chiến tranh Hồ chưa dám thi hành. Nhiều tác giả ngoại quốc ngờ nghệch cho rằng Tổng Thống Ngô Đình Diệm không chấp nhận tuyển cử sau hiệp định Genève đã làm chiến tranh Việt Nam lần 2 xâỷ ra. Họ không biết điều mà người dân Việt ai cũng biết: Khi bộ đội cán chính cộng sản họ đã nhất loạt dụng tâm để lại toàn bộ vợ con và điều nhắn nhủ sẽ trở lại, đường mòn Hồ Chí Minh để xâm lăng miền Nam 1956, nhưng được chuẩn bị dự trù cả năm trước. Dù sớm hay muộn con đường chiến tranh đánh thuê của Hồ, giống như của Fidel Castro và ngày nay do Kim Chính Nhật Hàn Quốc làm, chỉ vì họ không có tài năng kinh bang tế và “tầm văn hoá thấp” (Hà Sĩ Phu) của trào lưu cộng sản đánh thuê là con đường tất nhiên của Hồ và được Hồ gọi mỹ miều “Nghĩa Vụ Quốc Tế” Chiến tranh Việt Nam có vẻ như một cuộc nội chiến Nam Bắc, nhưng bản chất không phải vậy vì ngay từ 1925, Hồ đã bán Phan Bội Châu năm 1930 CSVN tung truyền đơn tố cáo với Pháp việc Việt Nam Quốc Dân Đảng nổi dậy (Hoàng Văn Đào) và trong lúc chưa chống xong Pháp CSVN đã thủ tiêu các lảnh tụ các tôn giáo, cuộc chiến mang mầu sắc ý thức hệ rỏ rệt và rỏ hơn hết do quyền lợi của riêng phe đảng cộng sản Việt.
Mặc dầu chiến tranh với Pháp đã xâỷ ra, CSVN tiếp tục giết các cán bộ đảng viên quốc gia, Trương Tử Anh, Lê Khang bị giết đầu năm 1947. Riêng họ Nguyễn Tường bị triệt hạ kể từ ngày Nhất Linh Nguyễn Tường Tam không chịu ký Hiệp Định Sơ Bộ 6-3-1946 cho đến năm 1954 thì họ Nguyễn Tường tại đất Bắc không còn một ai, nội cũng như ngoại. Ác là bản chất CSVN (Thích Quảng Độ), quy mô và không ngại bất cứ điều gì, nhưng mang bộ áo đạo đức nhân từ của Hồ Chí Minh. Người Á Đông tin nhiều vào một con người cụ thể khác với người Tây Phương tin nhiều vào định chế trừu tượng. Hồ Chí Minh dù chết đã nửa thế kỷ nhưng vẫn là thần tượng quan trọng của chế độ.
Mặc dầu người dân không tín tưởng Hồ như trước đây nhưng đảng cộng sản Việt Nam, toàn bộ các cán bộ cao cấp và đa số cán bộ trung cấp vẫn tuyệt đối thần kính Hồ, có thể có người giả vờ nhưng bề ngoài vẫn phải suy tôn.
Với sự sụp đổ lý thuyệt Mác Lê và các chế độ cộng sản, huyền thoại Hồ Chí Minh là sức mạnh tinh thần duy nhất của CSVN. Nói chạm nhẹ đến Hồ Chí Minh dù nhẹ như chuyện Hồ có vợ cũng là điều cấm và bị trừng trị.
Các nhà phản kháng dù trong hay ngoài đảng, các nhà trí thức đều không dám động đến Hồ, ngược lại họ còn dùng các lời nói của Hồ làm bung xung để thêm sức thuyết phục. Huyền thoại Hồ Chí Minh còn, đảng cộng sản Việt Nam còn sức mạnh tinh thần và như vậy chế độ còn vững chắc mặc dầu vô số khuyết điểm đầy râỷ bất mãn. Bóng ma Hồ Chí Minh tan, sự kềm toả cuả chế độ Mác Lê sẽ không còn chống nổi sự bất mãn chống đối của dân chúng, của các tôn giáo và các lực lượng quần chúng chính trị. Ánh sáng trí tuệ, đạo đức ngay thẳng sẽ trở lại trên quê hương để Việt Nam tái sinh; trong nước và hải ngoại cùng nhau, trong dân chủ tự do, phấn chấn xây dựng đất nước.
San Jose thang 7/2003
jeudi 21 juin 2007
Inscription à :
Publier les commentaires (Atom)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire