Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh ở Việt Nam
Việt Thường
Bài 7.
Tụi này được lựa chọn trên cơ sở “giai cấp” và “tính đảng (mafia)” và đào tạo theo kiểu “thủ công” nghĩa là học tắt và học nửa chương trình bậc phổ thông. Thí dụ: Nếu chúng được cho đi học về ngành xã hội thì chúng chỉ học tóm tắt kiến thức bậc phổ thông về văn, sử và địa lý, không học các môn toán, vật lý, hóa học, sinh vật. Còn nếu theo học về ngành khoa học tự nhiên thì ngược lại. Vả chăng, đứa nào đã được “đảng” chọn đi học là coi như đương nhiên phải đỗ. Thầy, cô giáo nào mà chấm thi để chúng trượt sẽ bị phê bình là “mất lập trường giai cấp”. Dưới chế độ mafia đỏ đây là một trọng tội! Thí dụ cụ thể: Hạ bá Nền nguyên là giao liên thời chống Pháp, vì có họ xa với Hoàng quốc Việt (tên thật là Hạ bá Cang) nên được cho đi học bổ túc công nông rồi vào học đại học tổng hợp văn ở Hà-nội. Suốt 3 năm học đại học, Hạ bá Nền chỉ làm có ba việc là: hoạt động hiệu đoàn của trường; là bí thư chi bộ đảng mafia đỏ của lớp; có thì giờ thì vào thư viện sưu tập thơ của các bút nô “ca ngợi” Hồ chí Minh (sau được in thành tập gọi là “Sáng tháng năm”). Vì thế khi thi tốt nghiệp để giấy trắng và giáo sư Hoàng như Mai đành phải đánh trượt. Hạ bá Nền làm đơn kiện giáo sư Hoàng như Mai gửi đảng đoàn mafia đỏ ở bộ đại học và trung học chuyên nghiệp. Kết quả: Giáo sư Hoàng như Mai bị khiển trách, phải xin lỗi Hạ bá Nền và bộ đại học và trung học chuyên nghiệp đã gửi “bằng tốt nghiệp đại học tổng hợp văn” cho Hạ bá Nền!!!
Các tổ chức trường lớp ăn ở, sinh hoạt, học tập lẫn lộn các thành phần nói trên là biện pháp của tập đoàn lãnh đạo mafia đỏ muốn thuần hóa ngay từ đầu tầng lớp “trí thức tương lai” của cái gọi là “chế độ xã hội chủ nghĩa” y hệt kiểu các cụ xưa thường nói rằng:
Dạy con từ thuở còn thơ
Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về.
Cho dù sẽ là “trí thức xã hội chủ nghĩa tương lai”, nhưng vì có cái gốc trí thức nên vẫn bị nghi kỵ. Bởi vì đường lối đào tạo của “quốc tế cộng sản” (tức mafia đỏ quốc tế) đối với trí thức của thuộc quốc (như Việt Nam dưới chế độ mafia Hồ chí Minh) là biến họ thành trí nô, hoàn toàn khác với cách đào tạo ở mẫu quốc (Nga-xô).
Về vật chất:
Được là sinh viên, phải là đoàn viên thanh niên cộng sản (cánh tay mặt của đảng mafia đỏ), là qua được một cửa ải. Tuy nhiên, loại trừ số gốc gác từ binh lính, công an, cán bộ ra, số xuất thân từ học sinh cấp 3 phổ thông chính quy vẫn còn bị chia loại thành con em họ hàng mafia đỏ gộc; con em “liệt sỹ”, thương binh; con em đảng viên mafia và con em những gia đình “quần chúng tốt” (nghĩa là gia đình không có ai là đảng viên mafia mà cũng không có ai là phản động hoặc đối tượng bị phân biệt đối xử) tất nhiên bản thân phải là đoàn viên thanh niên lao động, để quản lý, để đãi ngộ có chút phân biệt. Cụ thể là: con em của mafia đỏ trung, cao cấp, con em “liệt sỹ”, thương binh khi vào đại học được thỏa mãn ngành nghề, được cho thêm điểm và được hưởng học bỗng toàn phần. Thí dụ về điểm: giả sử muốn thi vào trường y khoa, điểm đậu là 40. Con em quan lại đỏ và con em thương binh, “liệt sỹ” chỉ cần 35 điểm là cho đậu. Cá biệt còn ít hơn cũng được đậu. Còn con em đảng viên mafia đỏ thường và “quần chúng tốt” bắt buộc phải đủ 40 điểm mới cho đậu. Cá biệt có khi đủ 40 điểm vẫn phải chuyển qua học ngành khác mà tiêu chuẩn điểm số ít hơn, như bách khoa hay tổng hợp chẳng hạn, để “nhường” chỗ cho con em quan lại đỏ trung, cao cấp hay con em liệt sỹ, thương binh vào học dù điểm thi của chúng có thể dưới cả điểm “ưu đãi” là 35 điểm. Tóm lại là, trong thực tế không phải người giỏi được vào đại học và không được quyền chọn ngành học, trừ phi đó là con em quan lại đỏ cao cấp.
Ở tập thể tất nhiên cũng phải ăn tập thể. Những sinh viên được học bỗng cũng chia làm ba hạng: Loại được toàn phần học bỗng; loại nửa học bỗng và loại 1/3 học bỗng. Con em quan lại đỏ đương nhiên được hưởng học bỗng toàn phần, đủ đóng tiền ăn tháng và giấy, bút, mực. Khẩu phần ăn của sinh viên dưới chế độ mafia đỏ Hồ chí Minh là khẩu phần đói nhất. Thí dụ: trước 1975, ở phía Bắc Việt Nam, trong khi tiêu chuẩn ăn của bếp dành dành cho nhân viên của trường là 18 đồng/tháng, thì của sinh viên là 15đồng/tháng. Khẩu phần ăn của sinh viên “có vẻ” đồng đều nhau, nhưng thực tế khác biệt rất xa. Vì, trong khi sinh viên nghèo chỉ ngày hai bữa theo tiêu chuẩn 15đồng/tháng, nghĩa là hai lưng cơm độn, tý nước canh rau và vài cọng rau già chấm nước muối ớt. Cả tháng may ra mới được ăn một bữa có một mẫu thịt hoặc hai lát đậu phụ, vì tiêu chuẩn thực phẩm phân phối của sinh viên chỉ có 0kg150 thịt hoặc mỡ trong một tháng (có thể bị thay thế bằng 0kg300 đậu phụ) và 0kg100 đường màu cánh gián (đường Cuba sản xuất) hoặc thay thế bằng mật mía để nấu chè khoai lang hoặc sắn lấy từ chất độn trong khẩu phần lương thực mà dân thường là 13kg500 (cũng bị trừ 3kg). Trong khi đó, con cái quan lại đỏ cao cấp được gia đình cho thêm lương khô (hàng Trung cộng viện trợ cho binh lính mafia đỏ), thực phẩm như thịt kho, cá kho, pa-tê, gà vịt kho, bơ, sữa hộp, đường trắng (hàng mua trong cửa hàng cung cấp đặc biệt), thuốc bổ. Ngoài ra bọn chúng có tiền nên sáng, trưa, tối còn ra hàng quán quanh trường ăn quà như phở, bún, bánh kẹo, trái cây. Nhiều đứa hai bữa ăn chính còn được ô-tô của bố đến đón về nhà ăn cơm với gia đình. Cho nên phần cơm ở trường hầu như chúng đem cho các bạn thân hoặc loại “bạn tà-lọt”! Thành ra sinh viên xuất thân gia đình thương binh, “liệt sỹ”, cán bộ trung, sơ cấp, “quần chúng tốt” hầu như đói quanh năm. Vì thế mới xuất hiện chuyện “tiếu lâm thời đại” có tên “Nhà 5 tầng” trong đó nói đến việc tầng lầu dành cho sinh viên ở không cần nhà cầu (WC) vì sinh viên bị ăn đói nên có cứt đâu để ỉa mà cần nhà cầu!
Trong tổ chức của mafia đỏ ở các trường đại học, sinh viên phải luân phiên nhau “lao động chân tay” ở trường như làm phụ bếp, làm vệ sinh trường lớp. Tụi mafia đỏ dùng biện pháp “bỏ đói” để thuần dưỡng tầng lớp “trí thức tương lai” đã khiến công việc “lao động chân tay” đó thành đặc ân. Vì, sinh viên tranh nhau được “lao động chân tay” (chứ không phải học kiến thức) để được nhà bếp tăng thêm một chút trong khẩu phần ăn do xà xẻo từ khẩu phần của các sinh viên khác. Tất nhiên con em quan lại đỏ không bao giờ phải “lao động chân tay” vì đã có vô vàn sinh viên xuất thân hạ phong xin được thay thế để giành bữa ăn ưu đãi do “bóc lột” của các bạn học mà ra. Nghĩa là, loại trừ con cái quan lại đỏ, những “trí thức tương lai” của xã hội mafia đỏ thống trị đã được thuần dưỡng thành thói quen “giành giật từng vài muỗng cơm độn và vài cọng rau già hoặc lát đậu phụ “nhiều hơn các bạn”. Cho nên cái gọi là “trí thức xã hội chủ nghĩa” thực chất là trí nô. Họ đã bị vô liêm sỉ hóa trong lúc đào tạo.
Về tinh thần:
Trước hết về danh xưng, tụi mafia đỏ không dùng chữ sinh viên mà gọi là học sinh đại học. Vì thế cũng bị đối xử như học sinh ở bậc phổ thông. Tỷ như cũng phải tập hợp xếp hàng vào lớp. Vào đến lớp rồi, yên vị xong phải hát tập thể vài bài theo sự điều khiển của quản ca. Thông thường là các bài “Kết đoàn” (nhạc Trung cộng, lời Việt dịch từ Tàu ra); vài bài có nội dung thi đua sản xuất, công ơn “đảng” (mafia đỏ) và chống “Mỹ-Ngụy”. Từ cách lên lớp cho đến làm bài kiểm tra, hệt như ở bậc phổ thông, hoàn toàn khác với cách đào tạo trên thế giới, ngay cả Nga hay Đông Đức. Nghĩa là người sinh viên sau khi lên lớp nghe giảng bài thì về học và làm bài theo tổ, hoàn toàn không có sự độc lập suy nghĩ. Đây là biện pháp chống sinh viên có thể suy nghĩ (tức tư duy) khác với ý đồ của tập đoàn mafia đỏ đầu sỏ. Đồng thời, kiểu học theo tổ, theo nhóm cũng nhằm “kiểm soát tư tưởng” của sinh viên.
Sinh viên xưa kia được tôn trọng cả ngoài xã hội lẫn ở nhà trường; được làm quen với việc nghiên cứu cẩn trọng và độc lập tư duy (tức suy nghĩ) trên các tài liệu; được ba tháng hè một năm học và nếu có năng lực học tập có thể cùng lúc ghi tên học hai hoặc ba ngành (thí dụ như lưỡng khao tiến sỹ Nguyễn mạnh Tường, vừa học luật vừa học văn chương; hay “thần đồng” Trần đại Văn, khi học ở Albert Sarraut trước 1954, học 3ème (tức đệ tứ phổ thông) nhẩy thi tú tài Pháp phần 1, qua ba tháng hè thi tú tài Việt phần 1; năm sau thi tú tài Pháp phần 2, qua ba tháng hè thi tú tài Việt phần 2, nghĩa là có bốn bằng tú tài trong hai năm học và sau đó lên đại học Hà-nội (trước 1954) cùng theo học hai ngành là toán đại cương đại học (M.G) và lý, hóa, sinh (P.C.B) và đều đạt kết quả “rất giỏi”. Còn sinh viên dưới chế độ mafia đỏ Hồ chí Minh chỉ được phép học một ngành, trong đó thời gian học kiến thức rất ít, không có điều kiện nghiên cứu ngoài tài liệu được phép. Vì ở thư viện có sự phân loại sách vở, tài liệu gọi là lạc hậu phản động, chỉ dành cho người có thẻ đặc biệt do giấy giới thiệu của bộ trưởng bộ chủ quản người nghiên cứu ký bảo lãnh, còn các giáo viên, sinh viên chỉ được học, tham khảo sách báo, tài liệu đã được kiểm duyệt, đảm bảo không có sự bất lợi cho chế độ mafia đỏ trong nước cũng như quốc tế và cái gọi là triết học Mác-Lê (Marx-Lénine). Trong 9 tháng học tập, sinh viên dưới chế độ mafia đỏ phải học cái gọi là chính trị, có nghĩa là chấp nhận cái gọi là chủ nghịa Marx-Lénine, tư tưởng Mao trạch Đông và tác phong Hồ chí Minh mà nội dung chủ yếu phải thấm nhuần là:
- Chủ nghĩa quốc tế vô sản tức ưu tiên bảo vệ Nga-xô-viết; thực hiện chiến lược bá chủ toàn cầu của Nga-xô qua cái gọi là giúp đỡ các “đảng bạn”, giúp đỡ cái gọi là “cách mạng dân tộc dân chủ” cả cổ động tuyên truyền cả người, cả vật chất. Thí dụ như mafia đỏ Việt Nam giúp cho Lào cộng, Cam-bốt cộng. Congo thời Lumumba cầm quyền; hoặc kiểu Cuba đem lính qua châu Phi cũng như châu Mỹ La-tinh v.v…
- Đấu tranh giai cấp là động lực của cách mạng và bạo lực cách mạng. Nghĩa là phải thừa nhận việc tiêu diệt các thành phần giai cấp xã hội bị mafia đỏ qui là phi vô sản là duy nhất đúng và cần thiết cho xã hội tiến lên, cũng như phải giải quyết mọi cuộc “cách mạng” có tính chất đấu tranh giai cấp bằng biện pháp duy nhất hiệu quả là bạo lực, như kiểu cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh.
- Chủ nghĩa Marx-Lénine là đỉnh cao trí tuệ của loài người. Chủ nghĩa đế quốc tất yếu phải sụp đổ. Cách mạng vô sản sẽ thành công trên toàn thế giới là điều khẳng định.
- Phép biện chứng của tự nhiên và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Tóm tắt tư bản luận của Marx và v.v…
Về trong nước Việt Nam thì phải học:
- Lịch sử cách mạng Việt Nam (tất nhiên đây là tài liệu xuyên tạc lịch sử chân thực của Việt Nam).
- Chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tự do vô chính phủ và phải thấy nền dân chủ tập trung ngàn vạn lần dân chủ hơn các nước ở thế giới tự do, Phải thấy tính ưu việt của chế độ ta (tức chế độ mafia đỏ Hồ chí Minh) và chủ nghĩa tập thể.
- Các nghị quyết của đảng mafia đỏ Hồ chí Minh cùng việc nghe báo, đài hằng ngày và nghe báo cáo ngoại khóa (chủ yếu là xuyên tạc, tô hồng, bôi đen).
Cùng với học lý luận chính trị còn có sự kết hợp của cái gọi là “lý luận và thực hành”. Nghĩa là sinh viên phải tham gia “xây dựng trường lớp” để hiểu về cái gọi là “lao động sáng tạo ra của cải vật chất”; phải giúp nông dân trong các ngày thu hoạch, làm cỏ, tát nước v.v…; phải giúp công nhân tức làm vệ sinh công nghiệp ở các nhà máy; phải tham gia đầy đủ các cuộc mít-tinh chính trị tức rèn luyện lập trường cách mạng; phải tham gia sinh hoạt văn nghệ, thể thao nhằm rèn luyện thành cái gọi “con người mới xã hội chủ nghĩa”!!!
Đối với sinh viên, điểm học tập chính trị và lao động quan trọng hơn điểm kiến thức của ngành học. Nó còn là cơ sở cho việc duyệt tốt nghiệp và bố trí nơi công tác, cũng như đó là tiêu chuẩn để thành “cảm tình của đảng mafia đỏ” hoặc được kết nạp thành đảng viên mafia đỏ.
Ngoài môn chính trị kết hợp với phải lao động chân tay như đã trình bày ở trên, sinh viên còn phải tập quân sự. Nghĩa là sinh viên được đào tạo thành trí nô cùng lúc có thể sử dụng làm binh nô khi cần.
Bè lũ mafia đỏ Hồ chí Minh luôn luôn kêu gào rằng; “có áp bức thì có đấu tranh” để “chính nghĩa hóa” những hành động gây chiến tranh phục vụ cho chủ nghĩa bành trướng toàn diện của đế quốc đỏ mà chúng là tay sai, cũng như những thủ đoạn bạo lực mà chúng thực thi trong cái gọi là “cách mạng long trời lở đất”. Chúng như thằng mù múa gậy vườn hoang nên không thể thấy rằng chính chúng là tập đoàn tiếm quyền thống trị và đàn áp tàn bạo nhất lịch trong sử loài người, còn hơn cả lũ xâm lược phương Bắc xưa kia và gần trăm năm đô hộ của thực dân Pháp. Vì thế các tầng lớp nhân dân Việt Nam nói chung, trí thức và “trí thức tương lai” (tức học sinh, sinh viên) của Việt Nam nói riêng, dù bị quản lý và khống chế chặt chẽ bằng tổng hợp mọi thủ đoạn đàn áp của lũ xâm lược, thực dân xưa kia kết hợp với phương pháp tẩy não khoa học của đế quốc đỏ dựa trên học thuyết Paplov, vẫn có 1001 cách đấu tranh khi công khai, khi ngấm ngầm đã có tác dụng bào mòn, làm hoen rỉ chế độ khát máu mafia đỏ Hồ chí Minh.
Cho nên, khoảng đầu năm 1970, Tố Hữu, ủy viên chính trị bộ kiêm ủy viên ban thư ký đảng mafia đỏ, phụ trách trưởng ban tuyên huấn đỏ đã chủ biên cho ra đời cuốn “Về bọn Nhân văn – Giai phẩm chống đảng”. Cuốn sách này phát hành nội bộ nhằm “nâng cao tinh thần cảnh giác đối với tầng lớp văn nghệ sỹ, trí thức” trong giới mafia đỏ cầm quyền của trung ương và các tỉnh, thành. Đồng thời, Tố Hữu cũng đưa ra “sáng kiến cò mồi” bằng cách giao cho trung tá nhà văn Nguyễn Khải, viết 9 bài “hơi tiêu cực” đăng trên báo Nhân dân. Kết quả chỉ có một giáo viên trẻ ở Gia-lâm (Hà-nội) mắc bẫy và được tên mật vụ Dương Thông hỏi thăm sức khỏe!
Tố Hữu bị đồng bọn trong chính trị bộ chê, hắn chối việc giật dây Nguyễn Khải. Hoàng Tùng, tổng biên tập báo Nhân dân, ngậm miệng nhận tội “mất cảnh giác”. Còn Nguyễn Khải, vội chạy vấn kế một “sư phụ” nên khi bị Trường Chinh hỏi tội đã nhận tất cả tội lỗi do lập trường bản thân giao động. Vì thế, sau một thời gian bị ngồi chơi xơi nước, bị bạn bè xa lánh, Nguyễn Khải được Tố Hữu thi ân cho đeo lon đại tá, giữ ghế phó tổng thư ký hội bút nô kiêm thường vụ đảng đoàn của mafia đỏ trong cái gọi là “Hội liên hiệp văn học nghệ thuật”!!! Thế là một bước từ việc chấp nhận thân phận “cò mồi” và trung thành bảo vệ “uy tín” cho Tố Hữu, Nguyễn Khải nhảy lên thành quan lớn văn nghệ đỏ: một trí nô bự!!! Tiếng nói của Nguyễn Khải còn nặng ký hơn cả tên trí nô “còng lưng bẩm sinh” Nguyễn đình Thi (lời Thi nhận tội với nhà văn Nguyễn Tuân. Chẳng là nhà văn Nguyễn Tuân trách Nguyễn đình Thi thấy trên là còng lưng xuống không dám nói sự thật về những báo cáo láo của Bảo định Giang. Thi đã trả lời đại ý: “Tôi vốn còng lưng bẩm sinh mà.” Thế là nhà văn Nguyên Tuân chỉ còn cách chép miệng bỏ đi mà thôi).
Những phần trên là điểm lại những nét chính yếu của tội ác ngụy quyền Hồ chí Minh đối với nhân dân miền Bắc Việt Nam, do đích thân Hồ chỉ đạo, vì hắn nắm trong tay những chức vụ chủ yếu của bộ máy cai trị của thực dân đỏ khi ấy:
- Chủ tịch đảng mafia đỏ (hay tập đoàn công dân búa liềm);
- Chủ tịch nước (một thứ thá?i thú của thực dân đỏ);
- Chủ tịch hội đồng quốc phò?ng (người có quyền lực cao nhất của các cơ quan chuyên chính).
Dưới đây, xin nêu lên tội ác và âm mưu thâm độc của Hồ đối với cả nước Việt Nam nói chung, phần miền Nam nói riêng.
Ngay từ 1930, lúc cái gọi là “đảng cộng sản Đông-dương” được thành lập với bảy tên toàn là người Việt Nam, không có một mống Lào hay Cam-bốt nào, khiến ta phải hiểu rằng, thực dân đỏ, thông qua quốc tế 3, đẻ ra công cụ bành trướng thuộc địa đỏ ở Đông-dương này, lậy tụi cộng sản Việt Nam làm chủ lực. Cho nên dù phương thức thực hiện có linh hoạt thay đổi theo từng thời kỳ, tùy theo thế và lực của mẫu quốc đỏ và công cụ bành trướng là “đảng cộng sản Đông-dương”; dù có thay đổi tên thành “lao động” hay “nhân dân cách mạng” hay “hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác”, thì mục tiêu tối hậu vẫn là biến ba nước Đông-đương (Việt Nam, Lào, Cam-bốt) thành thuộc địa đỏ, là tiền đồn của Nga-xô tiến tới xâm lược toàn vùng Đông-nam-á và bao vây đối thủ bá quyền của Nga-xô là Trung cộng (sau này) và đảng cộng sản Tàu trước đó.
Hồ được thực dân đỏ giao nhiệm vụ xây dựng phong trào “cộng sản ở Đông-nam-á”, giám sát một phần nào đó hoạt động của cộng sản Tàu, nhưng đối với “cộng sản Đông-dương” thì Hồ chỉ là người liên lạc giữa “quốc tế 3” và “cộng sản Đông-dương” mà thôi. Chưa bao giờ Hồ được coi là lãnh tụ của “cộng sản Đông-dương” như Trần Phú, Lê hồng Phong, Nguyễn thị Minh Khai, Hà huy Tập, Phùng chí Kiên v.v…
Quốc tế 3 (tức Nga-xô) chỉ sử dụng Hồ vì hắn tỏ ra mẫn cán, chịu khó chịu khổ và sẵn sàng làm bất kể những gì dù đồi bại, bẩn thỉu và tàn bạo. Nghĩa là Hồ được dùng chứ không được tin.
Sau này, khi nắm được quyền lực trong tay, Hồ đã vội vàng tự đánh bóng trước vào chính lúc biết bao công việc của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa bắt đầu. Vậy mà Hồ vẫn dành công sức để viết về bản thân, dưới cái tên Trần dân Tiên (1948) và T. Lan. Điều đó chứng tỏ nó rất quan trọng đối với Hồ. Và quả rằng thủ đoạn lưu manh đó của Hồ có đem lại nhiều kết quả.
1. Lũ bồi bút của Hồ ra công tô vẽ trên cái khung giả dối đó của Hồ, lòe hết thế hệ này đến thế hệ khác, đến mức có những tên biết rõ con người của Hồ mà cũng xoay ngòi bút 180 độ để ca ngợi Hồ như Trường Chinh, Trần huy Liệu, Nguyễn khánh Toàn, Trần văn Giàu v.v…
2. Các nhà báo, nhà văn, sử gia nước ngoài – kể cả loại có tiếng tăm – cắm đầu dựa vào núi tụng ca đó để vẽ rắn thêm chân, đến mức mấy “me-xừ quan liêu” ở UNESCO chút xíu tặng cho tên Việt gian số một, tên sát nhân, tên chó dái đụ bậy, tên đạo văn thành “danh nhân văn hóa thế giới!!! Cũng may, nhờ cộng đồng người Việt ở hải ngoại đã ngăn chặn cái chuyện lố bịch đó kịp thời.
3. Lũ bút nô ở mẫu quốc đỏ chính thức tô vẽ, đánh bóng cho đứa con hoang đã từng bị hắt hủi, bỏ qua các hồ sơ lưu trữ tại mẫu quốc đỏ.
Một loạt những cái đầu, những ngòi bút thiếu trung thực, thiếu dũng cảm, vô lương tâm đó đã gây họa cho nhiều thế hệ của nhân dân Việt Nam. Vì, cho đến tận bây giờ, còn có những người Việt Nam ở hải ngoại (trong nước thì khỏi nói) viết sách “chống cộng” mà vẫn sao chép của giả, kê hết ông Tây này đến bà Đầm kia, không một lời phê phán, đối chiếu so sánh tài liệu nên tên sách thì chống đối mà nội dung thành chống đỡ cho họ Hồ. Chính lý do này mà đến nay tập đoàn Việt gian cộng sản và ngụy quyền mafia Hà-nội vẫn lấy cái thây ma Hồ chí Minh làm lá chắn, che thân.
Những báo cáo của Trần Phú và Hà huy Tập gửi quốc tế 3 hãy còn, trong đó có tố giác năm 1930, chưa chờ chỉ thị của quốc tế 3 mà Hồ đã mạo nhận “thừa lệnh” quốc tế 3 để thành lập “đảng cộng sản Việt Nam”, nên sau phải đổi lại là “đảng cộng sản Đông-dương”. Thư của Trần Phú gửi quốc tế 3 (cục lưu trữ trung ương đảng cộng sản Liên-xô cũ) có đoạn: “Quốc chỉ là liên lạc viên thôi, nhưng ở đâu cũng ra lệnh, cũng đòi báo cáo làm chúng tôi cực kỳ khó khăn.” Biên bản kiểm điểm Hồ và chê Hồ ngu của quốc tế 3 cũng còn đó. Việc Hồ bị xếp lương còn dưới Nguyễn khánh Toàn vẫn còn đó. Việc Hồ khi đã nắm được bộ máy cai trị ở Việt Nam, qua Nga-xô vẫn bị Stalin coi thường (đúng ra là vừa khinh vừa nghi) cũng còn đó. Tất cả những điều trên và vài sự kiện khác nữa cho phép ta kết luận rằng, nguyên nhân Nga-xô dùng Hồ mà không tin Hồ vì:
Hồ là người Việt Nam đầu tiên sang Nga-xô tự nguyện hiến dâng cuộc đời và tâm hồn cho mẫu quốc đỏ. Nên nhớ Nga-xô là một nước tồn tại bằng an ninh, tình báo, nên chắc chắn và phải có sự thẩm tra lý lịch của Hồ. Chắc chắn Nga-xô phải biết những điều sau về Hồ:
a) Trong đơn xin học trường thuộc địa ở Pháp, Hồ khai tên là “Nguyễn tất Thành” và năm sinh là 1892. Khi tới Nga-xô, Hồ lại khai tên Nguyễn ái Quốc và năm sinh là 1985;
b) Hồ cũng không khai là trước ngày qua Nga, Hồ có vợ người Pháp (có con với Hồ đặt tên là Louis Daguière);
c) Hồ cũng không khai là đã làm đơn xin học trường thuộc địa Pháp và hứa sẽ phục vụ mẫu quốc Pháp.
d) Hồ cũng không khai rằng “Nguyễn ái Quốc” là cái tên chung của nhiều người. Cũng như các bài báo ký tên “Nguyễn ái Quốc” không phải đều là do Hồ viết. Nếu có bài nào đó do Hồ viết thì cũng đã được những vị cách mạng Việt Nam khác chữa hộ, như các cụ Phan văn Hùm, Nguyễn thế Truyền, Nguyễn an Ninh.
e) Hồ cũng không khai rằng cha Hồ là một bậc khoa bảng đã tình nguyện được làm tay sai cho thực dân Pháp, sau bị thải hồi vì tính tình hung bạo, nghiện rượu, say sưa đã vô cớ đánh chết dân lành làm thú vui “giã rượu”!!!
Những sự việc nêu trên cùng với lối sinh hoạt của Hồ như đĩ bợm, thích đớp hít (lúc nào Hồ cũng phải hút thuốc lá thơm Craven A, đốt thuốc liên tục; ngay lúc kháng chiến chống Pháp, Hồ vẫn phải vài gói Craven A một ngày, nhưng để tránh tiếng lãng phí, xa xỉ, Hồ bịa rằng “trung ương ra lệnh Hồ phải hút thuốc là thơm”. Lưu manh số dzách thật!); giả dối cả những việc không đáng gì v.v… nên Nga-xô dùng Hồ như kiểu Stalin dùng Yagoda vậy. Nghĩa là vì Hồ hám danh, hám lợi, hám ăn, hám gái; bất nhân, tàn bạo (chắc do gene của cha đẻ). Sau này khi Hồ đã thành công như Hồ tự thú: “Gặp thời một tốt cũng thành công” thì mọi sự đen được đổi thành trắng.
Biết thân phận như vậy, nên 1948, dù biết là lố bịch nhưng không thể khác được, Hồ đành lấy bút danh Trần dân Tiên để tự bộc lộ có dụng ý:
1) Cho đàn em cứ mẫu đó mà phết son trát phấn, đừng đi tìm hiểu lòng thòng mà lộ vở;
2) Biểu lộ khéo léo quá trình khuyển mã đối với thực dân đỏ cũng như quyết tâm làm khuyển mã đến hơi thở cuối cùng (như di chúc của Hồ sau này).
Vì thế, ngay khi phải ký hiệp định Genève 1954 về Việt Nam thì Hồ đã chuẩn bị để vi phạm. Đó là lệnh cho cài người lại miền Nam để phá các chính phủ của Nam Việt Nam sau này, không cho rảnh tay xây dựng ấm no, hạnh phúc cho dân; để dụ khị những loại cơ hội, hám danh, hám quyền (lấy áo gấm yêu nước che đậy), tùy loại mà kẻ thì “trí thức yêu nước”; kẻ thì “thành phần thứ 3”; kẻ thì “du ca phản chiến”; kẻ thì “vào bưng làm bù nhìn”; kẻ thì “cạo đầu vào chùa”; và có nhiều tên vào nằm vùng ở các tổ chức quân, dân, chính, đảng ở miền Nam (sau tháng 4/1975, nhiều tên đã lộ mặt). Chứng cớ rõ ràng nhất là nội dung nghị định 23/1999/NĐ-CP ngày 15-4-1999 của ngụy quyền Hà-nội về chế độ đối với “quân nhân, cán bộ được đảng cử ở lại miền Nam sau hiệp định Genève năm 1954”(sic). Cũng như nội dung Nghị quyết của hội nghị 15 (khóa 2 mafia đỏ) tháng 1-1959, do Hồ chủ trì, quyết định xâm lược vũ trang miền Nam Việt Nam. Nghị quyết 15 này hạn chế phổ biến nhưng vẫn được lưu trữ. Thế là chỉ 13 tháng sau ngày Hồ cho ra nghị quyết 13 (12/1957) mà nội dung là nắm vững chuyên chính và miền Bắc phải tiến lên XHCN, nghĩa là tập trung toàn bộ nhân lực, tài lực của miền Bắc Việt Nam vào tay tập đoàn mafia cộng sản bằng biện pháp cưỡng chế bạo lực, để chuẩn bị thực hiện tiếp tục chính sách bành trướng của thực dân đỏ.
Tập đoàn mafia cộng sản, sau khi Hồ chết, muốn tận dụng hiệu quả các chuyện phịa về Hồ trước đây ở tầm cỡ quốc tế để làm lá chắn che đậy bộ mặt Việt gian, phản dân hại nước của chúng, nên chúng đã chỉ đạo việc chạy tội cho Hồ, và con dê tế thần đó là Lê Duẩn (có lẽ vì Duẩn tuổi Đinh mùi, cầm tinh con dê cụ). Cho nên ngay cả một số người rời hàng ngũ mafia đỏ, ra hải ngoại (chẳng biết vô tình hay hữu ý) cũng viết sách chạy tội cho Hồ, nào là Hồ không liên can gì đến việc vũ trang xâm lược miền Nam; nào là Hồ bị Lê đức Thọ ngăn không cho phát biểu về nghị quyết 9 (khóa 3), tức nghị quyết Mao-ít(!); nào là Hồ bị mất quyền vào tay Lê Duẩn, đến mức vụ tàn sát 1968 (Mậu Thân) ở Huế, Hồ chỉ được cho thu bài thơ chúc Tết, còn ngày giờ Hồ đâu có biết v.v… (tin dò rỉ từ Vũ Kỳ (thiếu tướng), thư ký riêng của Hồ). Thật lạ, phe cánh Duẩn, Thọ bịt được mồm Hồ mà không bịt nổi mồm me-xừ Vũ Kỳ!!! Thậm chí có cái loa rè còn bạo phổi đưa tin là chiều 2-9-1969, Hồ say rượu bất nhã với đại sứ Nga-xô, nên tối đó Lê Duẩn đã đem súng lục phệt bể sọ Hồ. Nghe tin thấy đúng là “kẻ bị tâm thần” học đòi nghề viết!
Bài 8. Xin được phép phân tích như sau
Năm 1954, dù có vừa mù vừa điếc thì ai ai cũng biết rằng uy tín của Hồ, quyền lực của Hồ là tuyệt đối, Lê Duẩn khi đó còn ở dưới Trường Chinh. Sau Hồ thì uy tín cũng như quyền là thuộc về Võ nguyên Giáp. Vậy Lê Duẩn có dám chống Hồ và Giáp (chưa kể Trường Chinh, Nguyễn chí Thanh, Lê văn Lương, Hoàng quốc Việt và đàn em tin cẩn nhất của Hồ là Phạm văn Đồng) hay chấp hành lệnh của Hồ là cài người lại. Cũng có kẻ “tung tin” rằng Lê Duẩn “lén” cài người lại. Có thể lén cài những kẻ còn vô danh tiểu tốt như mấy anh trốn ra bưng sau này, nhưng làm sao lén được những cái tên như Nguyễn văn Linh, Nguyễn văn Sô, Võ chí Công, Nguyễn đức Thuận, Phan văn Đáng, Trần bạch Đằng, La văn Liếm, Nguyễn Chánh, Trần nam Trung v.v… Bọn chúng toàn là mafia kềnh chẳng lẽ ở lại mà không có lâu la, tà lọt dám trái lệnh Hồ ở lại làm cái gì, theo “địch” chăng? Hồ là kẻ chỉ có đi lừa và chơi gác người lại để cho đàn em qua mặt sao?
Những người “buôn tin giả” đó kể rằng tướng Giáp nhận được thư riêng của Khơ-rút-xốp không trình bộ chính trị nên bị qui chụp, sau nhờ Hồ nói: “Chú Giáp có đưa cho Bác xem rồi”, nên chuyện của Giáp mới được yên. Thật là lạ, nếu Hồ đã mất hết quyền mà chỉ một câu “Bác xem rồi” khiến cả bọn Lê Duẩn, Lê đức Thọ im re, cài số lùi thì “thánh” cũng không hiểu nổi mấy ông “buôn tin giả”, kiếm chuyện làm quà với đồng bào hải ngoại!!! “Chống cộng” mà vẫn lấy làm vạn hạnh vì được chụp ảnh chung với Hồ, được ngủ chung với Hồ, được huân chương của Hồ, là công thần của chế độ mafia cộng sản, là công dân số một v.v… thì quả rằng cần cân nhắc lại cái “động cơ chống cộng” là vì dân hay vì cái gì?
Vì sao lại có cái mâu thuẫn ấy? Xin phép được “mao tôn cương” tý chút. Đó là một mặt vì quyền lợi phe phái va chạm hoặc cũng có thể nhận thấy chất mafia Việt gian của tập đoàn ngụy quyền cộng sản nên ly khai, nhưng chưa phản tỉnh (duy nhất có cụ Nguyễn Hộ là có thái độ dứt khoát) vì thế cũng muốn núp sau cái thây ma của Hồ để ra cái điều “ta yêu nước từ chân tới tóc”, chứ chưa bao giờ mê anh cả Nga-xô hoăc anh hai Trung cộng.
- Ai đẻ ra mặt trận Liên Việt và xóa sổ mặt trận Việt Minh, tại sao?
- Ai đẻ ra mặt trận Tổ quốc vvà xoá sổ mặt trận Liên Việt, tại sao?
- Ai đẻ ra hiến pháp 1959 (thực ra được biên soạn xong từ 1958), tại sao?
- Ai đẻ ra “cải cách ruộng đ?t” rồi lại “sửa sai cải cách ruộng đất” mà người phát hiện sai lầm thì bị đuổi việc, đàn áp hết cả cuộc đời, còn kẻ có tội thì cứ lên như diều?
- Ai bỏ bộ tư pháp và khoa luậtt, rồi cai trị bằng sắc lệnh, tại sao?
- Ai tuyên bố dù có đốt cả dã?y Trường-sơn, dù có 5 năm, 10 năm hay lâu hơn nữa thì cũng phải “xâm lược” bằng được miền Nam Việt Nam?
- Ai đẻ ra cụm từ “ngụy quânn, ngụy quyền” miền Nam? Và “Mỹ mà xấu”?
- Ai bắt tù đào “hồ suối Hai⢀? để cải “long mạch” rồi chôn những chiếc răng sâu ở đó (để phát cho thằng con hoang)?
Hàng vạn câu hỏi như vậy, nhưng người ta vẫn giả điếc giả mù để trích dẫn ông Tây này bà Đầm nọ mà bỏ qua những sự thực họ đã và đang sống trong đó, chứ không phải “cưỡi ngựa xem hoa” như Tây và Đầm.
Đúng như bậc lão thành chống cộng, cụ Phan Khôi, đã nói: “Bạn đã cố tình tôi biết nói làm sao?” Chẳng làm sao cả, chỉ cần đừng đọc, đừng nghe, đừng để chúng có cơ hội tung hỏa mù. Muốn thế, những ngòi bút, những tiếng nói chính nghĩa cần hoạt động nhiều hơn nữa, phổ biến cả trong cộng đồng người Việt, cả cộng đồng quốc tế những sự thật không thể chối cãi về Hồ và cái tập đoàn Việt gian “công dân búa liềm” của hắn.
Nhân dân Việt Nam, vì là nạn nhân, rất sáng suốt khi thấy:
“Ba mươi năm ăn cướp, tướng Võ không còn Nguyên Giáp,
Cả cuộc đời bán nước, họ Hồ mất hết trí minh.”
Đến giờ phút này, loại trừ bọn tội phạm ngụy quyền cộng sản, chỉ có những kẻ “theo đóm ăn tàn”, cơ hội mánh mung hoặc thân phận “nửa tội phạm nửa nạn nhân” mới cố tình mơ hồ về những tội ác tàn bạo của tên Việt gian Hồ chí Minh là nguyên nhân đẩy đất nước Việt Nam xuống hạng áp chót của thế giới!!!
Sau hiệp định Genève 1954 về Việt Nam, Hồ chiếm được miền Bắc Việt Nam, nhờ vẫn tiếp tục đội lốt của Chính phủ Liên hiệp đa đảng, nhờ vẫn che đậy bằng ngọn cờ “giải phóng dân tộc” chống thực dân, nên trong và ngoài Việt Nam còn nhiều người mơ hồ, chưa nhận ra rằng cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đã bị thoái hóa thành chiến tranh bành trướng của thực dân đỏ.
Nhưng khi Hồ công khai vi phạm hiệp định Genève 1954 về Việt Nam; công khai đảo ngược nguyện vọng của toàn dân để thiết lập chế độ thực dân đỏ núp dưới mỹ tự là “xây dựng chủ nghĩa xã hội”; công khai vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam thì không có cách nào bào chữa cho dã tâm của Hồ là hắn bất chấp quyền lợi của nhân dân Việt Nam để thực hiện chiến lược toàn cầu của mẫu quốc đỏ.
- Việc Hồ ra lệnh cài nhân sự lại miền Nam Việt Nam ngay khi ký hiệp định Genève 1954 về Việt Nam;
- Việc Hồ ra lệnh thực thi chuyên chính ở miền Bắc Việt Nam nhằm nắm trọn vẹn cả người cả tài sản của miền Bắc Việt Nam để chuẩn bị chiến tranh bành trướng vào miền Nam.
- Việc Hồ ra nghị quyết về vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam (nghị quyết 15, tháng 1-1959), rồi tiến hành mở đường vào Nam, đặt thành bộ tư lệnh “công trường 59” và giao trách nhiệm cho tên sát nhân đồng bào Ba Làng, là Đồng sĩ Nguyên (tên thật là Nguyễn văn Đổng) làm tư lệnh; đưa người và vũ khí vào Nam;
- Việc Hồ triệu tập cái gọi là “hội nghị chính trị đặc biệt” (làm như kiểu Diên Hồng thời Trần) để động viên toàn lực xâm lược miền Nam Việt Nam; thăm dò dư luận quốc tế;
- Việc Hồ nặn ra cái gọi là “đảng nhân dân cách mạng” và chỉ định đại tướng ngụy quân Bắc Việt là Nguyễn chí Thanh vào làm bí thư, cũng như cho một lũ tướng ngụy quân ở Bắc vào như Hoàng văn Thái, Trần văn Quang, Hoàng Cầm, Trần Độ v.v… Cũng như dựng ra cái chính phủ phường chèo “giải phóng” mà Lữ Phương sau này được đóng “diễn viên loại 2” (vì mới được là thứ trưởng cái bộ văn hóa “ở trong bưng”!!!);
- Việc Hồ là kẻ đầu tiên đưa ra sử dụng cụm từ “ngụy quyền Sài-gòn” là cái chính phủ mà hắn đã thừa nhận tính hợp pháp và tính chính thống qua văn bản của hiệp định Genève 1954 về Việt Nam. Cũng như hắn công khai lên tiếng đòi lật đổ chính phủ hợp hiến ở miền Nam Việt Nam;
- Việc Hồ dùng những lời khát máu như “dù đốt cả dãy Trường-sơn” dù “5 năm, 10 năm hay lâu hơn nữa” cũng phải xâm lược bằng được miền Nam Việt Nam, bất cần hậu quả. Cần nhớ rằng miền Nam Việt Nam vẫn chỉ là người Việt Nam sinh sống. Không đếm xỉa gì đến hạnh phúc, lợi ích của nhân dân miền Nam. Không đếm xỉa đến nhân dân miền Bắc Việt Nam. Mục đích cuối cùng của Hồ chỉ là mở rộng bờ cõi của thực dân đỏ mà thôi. Dù là óc đất cũng thấy được diện mạo của Hồ đúng là một thằng đại Việt gian;
- Việc Hồ động viên, đề cao những kẻ ngu muội theo “con đường của Hồ” để giết hại nhân dân miền Nam Việt Nam, tàn phá các công trình kinh tế, xã hội của miền Nam Việt Nam chắc chắc không thể coi đó là hành động và suy nghĩ của một người Việt Nam bình thường chứ chưa nói đến là kẻ đang nắm quyền cai trị. Nhân dân và đất nước Việt Nam trong con mắt họ Hồ còn không bằng cách hành xử của một số thái thú thời Bắc thuộc như Nhâm Diên,Tích Quang hay lũ quan thực dân Pháp;
- Năm nào Hồ cũng làm vè đầu xuân để cổ động việc xâm lược miền Nam Việt Nam, kể cả vụ Tết Mậu Thân 1968. Chính Hồ là kẻ viết và đọc lệnh sau:
“Năm qua thắng lợi vẻ vang
Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to
Vì độc lập, vì tự do
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào
Tiến lên chiến sỹ, đồng bào
Bắc-Nam sum họp Xuân nào vui hơn!”
Lập tức bài vè này của Hồ được tên bút nô Phạm Tuyên phổ nhạc và cho phát ông ổng cả ngày, cả đêm.
Kẻ nào “quả quyết” rằng Hồ không biết gì về vụ Tết Mậu Thân là “cố tình giả mù”. Hãy xem lại những thước phim về Hồ chủ tọa các cuộc họp quân sự. Hãy đọc lại hồi ký của các tướng cộng sản xem. Ngay tướng Trần Độ cũng viết rằng mỗi lần ở Bắc quay lại Nam đều được Hồ cho ăn cơm. Vậy chẳng lẽ Trần Độ biết mà Hồ vẫn mù tịt chăng? Phải nói rằng, chỉ có những đứa cố tình chạy tội sát nhân cho Hồ, những đứa “cuồng tín ngu xuẩn” mới tin lập luận rằng Hồ không biết gì về Tết Mậu Thân. Hồ là một thằng dám hạ lệnh giết và bỏ tù 5% dân số nông thôn miền Bắc Việt Nam; cho lệnh tiêu diệt vụ Ba-làng; cho giết hàng vạn đồng bào người Mèo ở Hà-giang (các huyện Mèo-vạc và Phó-bảng) và bao vụ như “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh”, “chỉnh đốn tổ chức” v.v… thì cái chết của ba ngàn đồng bào ở Huế mà Hồ gọi là “ngụy” nào có nghĩa lý gì trong hồ sơ diệt chủng của Hồ!!!
- Năm nào Hồ cũng chủ trì hội nghị quân sự để chỉ ra nhiệm vụ mới cho ngụy quân cộng sản trong thực thi vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam và khen thưởng, nâng cấp, gắn huân chương, huy chương cho những tên có nhiều nợ máu với nhân dân miền Nam Việt Nam (có thể đọc lại các báo cáo của ngụy quyền Hà-nội lúc Hồ chưa bị đưa đi hỏa ngục, chưa bị phanh thây nhồi bông làm thú triển lãm ở Ba-đình (Hà-nội), cũng như các phim tư liệu về Hồ và về ngụy quân cộng sản);
- Trước năm 1954 đã đành, ngay sau khi làm “chủ” miền Bắc Việt Nam, Hồ đã và vẫn tiếp tục cho phá hoại các cơ sở tôn giáo, nếp sinh hoạt tinh thần của nhân dân miền Bắc Việt Nam;
- Hồ cho hủy hiến pháp 1946, đẻ ra hiến pháp 1959 không thèm trưng cầu dân ý. Hắn hoàn toàn làm ngược lại tất cả những gì mà hắn viết trong tuyên độc lập và v.v…
Tất cả những sự việc trên không thể nào đổ tội cho Lê Duẩn và Lê đức Thọ được.
*****
Sự thật về đấu đá nội bộ mafia đỏ khi Hồ còn sống
Nhiều người viết về Hồ, cả trong nước và ngoại quốc (không kể lũ bồi bút cố tình nâng bi) đều mắc sai lầm cơ bản:
- Sai lầm vì dựa vào cái khung tài liệu do Hồ tự phịa về mình cùng với các sản phẩm giả mạo do ngụy quyền Hồ chí Minh sản xuất trong một thời gian lâu dài;
- Sai lầm vì dựa vào những sách, báo ngoại quốc do người viết bị dẫn dắt bởi quan điểm chính trị hơn là với tư cách nhà nghiên cứu; nên thiếu trung thực;
- Sai lầm vì nếu có người nào đó cố làm đúng với tính cách nhà nghiên cứu, biên khảo thì họ lại không bao giờ hiểu được rằng tập đoàn Hồ chí Minh (từ Hồ cho đến nay là Nông đức Mạnh – thằng con hoang của Hồ) bao giờ cũng viết một đằng làm một nẻo. Cho nên chỉ nằm trong chuồng mà nghiên cứu các văn bản, các nghị quyết, và, nếu có tham quan thì theo kiểu “chuồn chuồn đập nước”, hoàn toàn thiếu vốn thực tế tối thiểu, cho nên công trình nghiên cứu dù ít hay nhiều, đều lợi cho tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh;
- Sai lầm vì trước khi viết về Hồ thì đã bị ngộ độc bởi sản phẩm, dư luận do Hồ và đồng bọn cả trong và ngoài nước tung ra nên bị hồ đồ, không phân biệt được nổi thực và giả. Nhất là những ai xin gặp trực tiếp Hồ đều phần lớn bị Hồ đóng kịch qua mặt hết. Bản chất của Hồ cộng với quá trình làm nghề gián điệp lâu năm khiến Hồ lúc nào cũng đóng kịch, lúc nào cũng giả dối cả những cái không cần thiết; nắm bắt tâm lý đối tượng rất nhanh và ứng phó cũng rất nhanh. Tính cách của Hồ hệt như mấy tên bán thuốc giả, lừa con bệnh ở các bến xe, bến tàu v.v…
Đàn em của Hồ sau này, từ Lê Duẩn trở xuống, đến nay là bọn Nông đức Mạnh, Trần đức Lương, Phan văn Khải, Nguyễn văn An, thậm chí cả anh hoạn lợn Đỗ Mười cho đến cai đồn điền cao-su có nợ máu với công nhân là Lê đức Anh, về tầm cỡ so sánh giống hệt con voi con với con ma-mút già vậy.
Vốn “học đường” của Hồ thì kém, nhưng Hồ học ở trường đời nhiều; lăn lộn đủ các thứ nghề; bôn ba khắp mọi chỗ; giao du đủ mọi tầng lớp; chịu ảnh hưởng sách cổ của Tàu nên Hồ biết lúc chưa có cơ hội cũng dám ăn cứt như Câu Tiễn, và khi đắc thế thì tàn bạo còn hơn vua Trụ. Thí dụ cụ thể: Trong chiến dịch biên giới 1950, đường đường là chủ tịch một nước nhưng Hồ hết sức khúm núm với đại tướng Trần Canh của Trung cộng; cùng đi chung ô-tô, Hồ đội mũ, quấn khăn che râu, ngồi sau thùng xe tải, nhường cho Trần Canh ngồi ở ca-bin. Trần Canh ăn cơm xong, Hồ xun xoe đưa khăn cho Trần Canh lau mồm và bưng nước cho Trần Canh uống. Nhưng, đến 1962, giữa lúc cuộc đấu “xét lại” và “giáo điều” của Nga-xô và Trung cộng đang gay go, biết mình có giá, nên khi đoàn đại biểu bộ bưu điện và viễn thông của Trung cộng qua thăm Bắc Việt Nam, do cả bộ và thứ trưởng (là ủy viên trung ương đảng của Trung cộng) đến phủ chủ tịch chào Hồ, hắn mặc bộ đồ nông dân màu nâu phanh hết khuy áo, đoàn Trung công đến rồi hắn mới bắt đầu bỏ kéo tỉa lá sâu héo ở vườn đi ra, rất là “kẻ cả”. Thế rồi, đến lúc ốm nặng, sợ chết, hắn cho mời Lý Ban (thứ trưởng bộ ngoại thương, dự khuyết trung ương mafia đỏ) đến và năn nỉ: “Tiên sinh có thể xin với Chu thủ tướng cho tôi sang Trung quốc chữa bệnh được không?” (vì đối với Việt Nam thì Lý Ban giữ chức vụ như nói trên, nhưng ngoài ra Lý Ban là phái viên của cộng sản Tàu bên cạnh mafia cộng sản của Hồ). Nên nhớ Lý Ban còn rất trẻ so với Phạm văn Đồng mà Hồ đội lên là tiên sinh (chuyện này do Lý Ban viết đăng trên tờ Nhân dân của ngụy quyền Hà-nội).
Khi bị Trương phát Khuê bắt bỏ tù, hắn viết phản tỉnh xin được làm tay sai cho Khuê trong kế hoạch “Hoa quân nhập Việt”. Hắn năn nỉ các cụ Hồ học Lãm và Nguyễn hải Thần để được gia nhập Việt Minh và xin về hoạt động ở biên giới Việt-Hoa. Khi gặp Trường Chinh, biết chưa thể lừa Trường Chinh được, hắn nâng bi Trường Chinh “một điều đồng chí tổng bí thư, hai điều đồng chí tổng bí thư”, và tỏ ra an phận nằm trong hang Pắc-bó (Cao-bằng) dịch sách, tạc tượng. Nhưng khi đắc thế, hắn lờ cụ Hồ học Lãm như không hề tồn tại trên đời và là ân nhân của hắn; tìm mọi cách tiêu diệt uy tín của cụ Nguyễn hải Thần. Còn với Trường Chinh, hắn dùng ngay chữ “bác” của Trường Chinh để ngồi ở bậc trưởng thượng của Trường Chinh. Rồi bày trò đặt tên để vừa hạ Trường Chinh vừa sử dụng Trường Chinh. Đó là việc hắn lấy khẩu hiệu “trương kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” đặt cho cái gọi là “những người phục vụ của “bác Hồ”, gồm:
Trường: là Trường Chinh;
Kỳ: là Vũ Kỳ, thư ký “thứ thiệt” của Hồ (vì còn nhiều thư ký chỉ dùng kiểu đối phó với hoàn cảnh chính trị lúc ấy. Tỷ dụ: dùng một người công giáo để làm “an lòng” đức cha Lê Hữu Từ; khi qua Pháp dùng cả thạc sỹ sử học Phạm huy Thông để dụ khị người Việt ở Pháp v.v…);
Kháng: là bảo vệ của Hồ, sau ra làm chỉ huy trưởng bộ tư lệnh cảnh vệ (tức chó berger hai chân);
Chiến: là bảo vệ kiêm lái xe; kẻ đưa đón cô Nông thị Xuân cho Hồ giải quyết sinh lý. Sau này giữ chức tổng cục trưởng tổng cục thể dục thể thao;
Nhất: là người giữ máy phát điện đài, sau cho làm phó tổng biên tập đài phát thanh trung ương, kiêm cục trưởng cục truyền hình;
Định: là tên thợ ảnh, sau cho làm chủ tịch hội nhiếp ảnh;
Thắng và Lợi: đều là cần vụ kiêm bảo vệ (đúng nghĩa là bồi).
Hồ thường dùng các trò tiểu xảo để “hạ bệ” đối phương bằng cách gặp ai cũng đặt tên, hoặc bí danh cho họ. Y như đặt tên cho “chó” vậy. Kẻ nào chấp nhận cái tên do Hồ đặt cho là tự nhiên tụt xuống hạ phong, thừa nhận “thân phận khuyển mã, gia nô” của Hồ!!!
Những phần trên cho thấy âm mưu của Hồ trong việc hạ phe Trường Chinh, nhưng tại sao chỉ hạ mà không tiêu diệt? Tại sao Hồ lại chọn Lê Duẩn thay ngôi vị của Trường Chinh mà không phải là Phạm văn Đồng hay Võ nguyên Giáp?
Muốn giải đáp được tất cả những điều đó cũng như muốn làm sáng tỏ những thêu dệt xung quanh Hồ, sau khi Hồ chết, tỷ như:
- Phe Lê Duẩn đã thay đổi ngày giờ chết của họ Hồ; đã sửa “di chúc” của Hồ; đã “làm sai nguyện vọng” của Hồ là hắn muốn được hỏa thiêu chứ không phải xây lăng;
- Phe Lê Duẩn “hiếu chiến” và là kẻ chịu trách nhiệm về cuộc tàn sát ở Huế (Tết Mậu Thân), về xâm lăng miền Nam Việt Nam, về gây chiến ở Cam-bốt, mà trước đó thì thân Trung cộng nên đã đẻ ra cái gọi là nghị quyết 9 (khóa 3) tức là “Mao-ít” mà trong hội nghị Lê đức Thọ đã “lấn át” không cho Hồ phát biểu;
- Và có đúng như Lữ Phương viết rằng: “… nhưng từ bên ngoài, nhiều người đã thấy khá nhiều những bực bội, buồn phiền gây ra cho ông bởi chính cái đám âm binh cách mạng của ông. Có nhiều chuyện không vui vẻ lắm, nhưng chuyện ông bị cho ra rìa suốt trong quãng đời còn lại trước khi ông mất là đáng chú ý nhất”.
Trước khi bàn về những điều nêu trên, tôi xin được lưu ý với bạn đọc rằng:
- Hồ là con người ích kỷ và thực dụng tàn bạo. Hắn là loại người mà tình cảm là món hàng xa xỉ. Thí dụ: Năm 1925, mới bước vào hoạt động thì đã bán cụ Phan Bội Châu cho thực dân Pháp, vừa triệt người yêu nước chân chính, vừa có tiền ăn nhậu và lập tổ chức Việt gian phục vụ cho Nga-xô.
Tiếp theo là bán cuộc khởi nghĩa của cụ Nguyễn Thái Học.
Rồi hắn bán ngay cả những thanh niên do nhóm Trần Phú, Hà huy Tập giới thiệu qua Tàu gặp hắn. Mục đích của hắn là nếu những thanh niên đó và gia đình, bạn bè của họ bị Pháp bỏ tù, khủng bố, nghĩa là ở vào con đường cùng thì có lợi cho việc hắn tổ chức hoạt động của hắn sau này; vừa có tiền nhậu nhẹt, hút thuốc thơm, ở khách sạn “cực kỳ sang trọng” (hồi ký của Nguyễn lương Bằng) lại khoét sâu được tội ác của thực dân Pháp hơn lên. Làm như thế là hắn đẩy những nạn nhân đó của hắn vào con đường phải chống thực dân Pháp đến cùng. Thật là hiểm độc! Sau năm 1954, chị gái ruột của Hồ lặn lội từ Nghệ-an ra thăm hắn mà hắn không cho gặp. Ăn chực nằm chờ lâu quá, bà ta phải ra về, vừa đi vừa chửi Hồ. Khi làm thí điểm “cải cách ruộng đất” ở Thái-nguyên, hắn đã bỏ mặc cho bà Nguyễn thị Năm bị tử hình, mặc dù bà ấy đúng ra là trong “thành phần địa chủ kháng chiến yêu nước”, và là người đã nuôi Hồ và cả lũ đàn em của Hồ trong những năm đầu của kháng chiến chống Pháp. Đối với “tình yêu” cũng thế, hắn chỉ cần thỏa mãn tính dục còn hệt như Sở Khanh, như việc của Nguyễn thị Minh Khai, của Nông thị Xuân v.v… Ngay Võ nguyên Giáp, cúc cung tận tụy với hắn, nhưng hắn vẫn cảnh giác cho ngồi chung một chuồng với Nguyễn chí Thanh để hai bên tự giám sát nhau, không ai dám âm mưu phản hắn. Đó là cách dùng người của Hồ, dù ở bất cứ cơ quan nào, ngành nào.
Xin nêu vài thí dụ cụ thể nữa để rõ thêm. Như ở nông thôn, sau cải cách ruộng đất thì dù là “chính quyền” hay “đảng”, bao giờ cũng có hai phe kình chống nhau: a) phe tố láo, vu láo; b) phe là nạn nhân của tố láo được “sửa sai”.
Bộ công an giao Trần quốc Hoàn, ủy viên dự khuyết chính trị bộ mafia đỏ, giữ ghế bộ trưởng; có Lê quốc Thân, ủy viên trung ương mafia đỏ, làm thứ trưởng thứ nhất, Lê quốc Thân theo Hồ và làm bảo vệ của Hồ từ Vân-nam (Tàu). Trong khi đó, Hồ lại giao cho Trần hữu Dực, chỉ là ủy viên mafia đỏ thôi, giữ ghế phó thủ tường kiêm chủ nhiệm văn phòng nội chính phủ thủ tướng. Nghĩa là về “đảng” thì Dực dưới Hoàn, về “chính quyền” thì Dực trên Hoàn và làm cái việc giám sát Hoàn.
Ở tổ chức trung ương, trước kia Lê văn Lương là trưởng ban, Lê đức Thọ là phó ban. Sau “sửa sai” của “chấn chỉnh tổ chức” Hồ cho đảo ngược: Lê đức Thọ là trưởng ban, có Vũ Oanh, có Đặng thị Kỳ (vợ Văn tiến Dũng) làm tà lọt. Còn Lê văn Lương xuống làm phó cho Thọ, có Hà thị Quế cùng phe. Giúp Lê văn Lương cày nát nhân sự trong khu tư của “chấn chỉnh tổ chức”, trong khi Lương bị giáng chức thì hai tên trực tiếp phạm tội là Đặng Thí và Đặng việt Châu được Hồ thưởng cho cái ghế “ủy viên trung ương mafia đỏ”. Đặng việt Châu sau còn được cho lên ghế phó thủ tướng.
Ở ban tuyên huấn trung ương, Hồ cho Tố Hữu làm trưởng ban thay Trường Chinh, và cái ghế ủy viên bộ chính trị, nhưng các phó ban như Hà huy Giáp (ủy viên trung ương) thứ trưởng thứ nhất bộ văn hóa kiêm bí thư “đảng đoàn “ bộ văn hóa, kiêm bí thư “đảng đoàn” hội liên hiệp văn học nghệ thuật; và Trần quang Huy, dự khuyết trung ương mafia đỏ kiêm bộ trưởng chủ nhiệm văn phòng văn giáo phủ thủ tướng lại là hai tay vừa khinh vừa ghét Tố Hữu. Còn Hoàng Tùng, dự khuyết trung ương mafia đỏ, tổng biên tập báo Nhân dân, tuy là phó của Tố Hữu nhưng cũng coi thường Tố Hữu. Lại thêm giữa Trần quang Huy và Hoàng Tùng, chúng ghét nhau như chó với mèo.
Ngay trong cái gọi là đại hội 2 của mafia đỏ, họp ở Việt-Bắc, cuối năm 1951, về nhân sự Hồ đã bố trí cho phù hợp với âm mưu lâu dài.
1. Hồ vẫn để Trường Chinh giữ ghế tổng bí thư vì chưa có cớ và chưa đúng thời cơ để lật Trường Chinh. Hơn nữa, Trường Chinh là tên thân Trung cộng, từ cái bí danh “Trường Chinh” cũng bắt nguồn của cuộc “trường chinh” của Mao. Tất cả các “tác phẩm” của Trường Chinh cũng là bắt chước Mao, như “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” được sao chép từ cuốn “Bàn về đánh lâu dài” hay “Đề cương văn hóa” là từ “Bài nói chuyện ở Diên-an” của Mao v.v… Vả lại, Hồ đang cần Trường Chinh trong tổ chức cuộc chiến ở miền Bắc lúc đó và sẽ dùng Trường Chinh và phe cánh Trường Chinh trong âm mưu về “cải cách ruộng đất” v.v…
2. Đưa Lê Duẩn vào ngôi vị thứ hai là chuẩn bị cho bước xâm lược miền Nam sau này.
Cũng nên nhớ rằng, ngay dưới thời Nguyễn văn Cừ làm tổng bí thư mafia đỏ, Lê Duẩn đã có bài viết ca ngợi “lãnh tụ Nguyễn ái Quốc (tức Hồ)”. Nghĩa là, Duẩn là tên mafia đỏ Việt Nam đầu tiên đã nâng bi Hồ từ lúc Hồ còn hàn vi! Cho nên sau cái gọi là “cách mạng tháng 8/1945”, trong lúc Trường Chinh sai Hoàng quốc Việt vào Nam để ngăn sự lộng hành của bọn Trần văn Giàu và Dương bạch Mai mà quên việc cho đón Lê Duẩn ở Côn-đảo về đất liền. Rồi khi Duẩn đã được về đất liền, thì chỉ được cho làm một chức rất khiêm tốn là “trưởng phòng dân quân Nam-bộ”! Phải nhờ Hồ cử Lê đức Thọ vào Nam để “chỉnh đốn” lại xứ ủy mafia đỏ miền Nam và tiến cử Lê Duẩn vào chức vụ “bí thư xứ ủy”. Rồi ở đại hội 2, Hồ đặt Duẩn ở vị trí chuẩn bị cho việc thay thế Trường Chinh.
3. Phạm văn Đồng được Hồ đặt ở vị trí số 3 trong hệ thống tổ chức mafia đỏ. Hồ rất tin Đồng, nhưng biết Đồng chỉ trung thành chứ không đủ mánh lới thực hiện những âm mưu của Hồ. Vì thế, khi Hồ kiêm ghế thủ tướng thì Đồng làm phó cùng giữ luôn ghế bộ trưởng ngoại giao. Sau khi vào Hà-nội (1954), Hồ cho Đồng cái ghế thủ tướng ngụy quyền Hà-nội. Hồ dùng Đồng làm “quả cân phụ” để giữ thăng bằng trong các cuộc họp chính trị bộ mafia đỏ, cũng như là người biểu lộ quan điểm của Hồ (khi Hồ cần ném đá giấu tay). Vì, Hồ muốn nếu có “xáo trộn” trong “đảng” thì “chính quyền” trong tay Đồng vẫn vận hành để cai trị dân có hiệu quả. Nên nhớ rằng, từ khoảng cuối 1962, trên thực tế là Phạm văn Đồng ăn ngủ tại “phủ chủ tịch” với Hồ cho đến lúc Hồ chết. Căn nhà riêng của Đồng ở đường Khúc Hạo chỉ dùng làm cảnh mà thôi.
4. Võ nguyên Giáp nhờ Hồ mà nhảy vọt vào chính trị bộ chính thức, cũng như từ trung đội trưởng lên như tên lửa thành đại tướng tổng tư lệnh, bí thư quân ủy trung ương, bộ trưởng quốc phòng, phó thủ tướng. Nghĩa là Hồ cho Giáp thật rộng tay để hoàn thành mục tiêu quân sự. Nhưng chính Hồ đã từng căn dặn các đệ tử rằng: “Không được chia quyền lãnh đạo vũ trang”, “quân đội là xương sống của cơ quan chuyên chính”, “quân đội là trường học đào tạo cán bộ cho đảng, là chỗ dựa vững chắc của đảng”, thì đời nào hắn không “thủ cẳng” đối với Giáp. Cho nên giống hệt kiểu “Lưu Bang dùng Hàn Tín”, khi đã chiếm được nửa nước phía Bắc Việt Nam, Hồ để Nguyễn chí Thanh (vật đối trọng của Giáp ở ngụy quân) chặt hết chân tay thân cận của Giáp. Rồi sau đó cử Thanh vào chỉ đạo cuộc xâm lăng miền Nam Việt Nam vì: một là Thanh là phần tử thân Trung cộng, rất được Trung cộng tin, nên qua Thanh chỉ huy thì xin súng đạn và các viện trợ của Trung cộng cho việc xâm lược miền Nam dễ hơn; và hai là, Thanh sẽ ganh đua với Giáp, sẽ tận sức hoàn thành việc xâm chiếm miền Nam Việt Nam cho Hồ (nghĩa là thực hiện việc bành trướng của thực dân đỏ), cố gắng “vĩ đại” hơn Giáp.
Ngoài mấy tên nói ở trên được là ủy viên chính thức của chính trị bộ mafia đỏ khóa 2, thì còn lại hai tên thân cận của Trường Chinh, được Hồ cho cái ghế dự khuyết chính trị bộ. Đó là:
1) Lê văn Lương – còn kiêm thường trực ban bí thư – phụ trách trưởng ban tổ chức trung ương;
2) Hoàng quốc Việt, trưởng ban dân vận trung ương.
Hồ cho hai tên này hai cái chức vụ đó để chuẩn bị cho âm mưu hạ chúng một cách “danh chính ngôn thuận”, vì Lê văn Lương sau sẽ chỉ đạo ngón đòn “chấn chỉnh tổ chức” của Hồ, và Hoàng quốc Việt phụ trách “thường trực ủy ban cải cách ruộng đất”.
Hồ chọn người để dùng là phải đảm bảo: một là hắn có thể tin được và hai là kẻ đó phải là người có thể hoàn thành nhiệm vụ mà Hồ giao phó. Đó là lý do không bao giờ Hồ nghĩ tới việc đặt Võ nguyên Giáp vào ghế tổng bí thư mafia đỏ như một số dư luận đã và đang tung ra.
Giờ ta thử tìm hiểu xem có phải Lê Duẩn và Lê đức Thọ đã cho Hồ “ra rìa trong quãng đời còn lại” như Lữ Phương đã viết không? Hay Hồ vẫn nghự trị cho đến tận lúc này là thằng con hoang – Nông đức Mạnh – của Hồ đang kế nghiệp Việt gian của Hồ.
Âm mưu của Hồ trong cải cách ruộng đất có thể nói là thành công mỹ mãn, ngay cả Trường Chinh và đồng bọn vẫn chưa biết đến thân phận của chúng sắp bị đem ra trả cho cái giá đã không chịu quy phục Hồ ngay từ ngày đầu gặp nhau ở biên giới Việt-Hoa. Đúng lúc đó, đại hội lần thứ 20 của đảng cộng sản Nga-xô họp. Tất nhiên, các đảng chư hầu đều phải có mặt. Đoàn mafia đỏ Việt Nam do Hồ – chủ tịch đảng – và Trường Chinh – tổng bí thư – đi phó hội. Ai ngờ ngày 25/2/1956 Krút-xốp đọc bản tố cáo “tệ sùng bái cá nhân Stalin” và nêu lên một số tội ác của Stalin. Hồ choáng váng mặt mày, vì Stalin là thần tượng của Hồ, là cái mẫu sống mà Hồ đang cố sao chép. Còn Trường Chinh, thì lại hồ hởi ra mặt, chẳng biết có phải vì tìm thấy chỗ dựa để tấn công Hồ qua cái gọi là “chống tệ sùng bái cá nhân” không, nhưng thái độ và nội dung mà Trường Chinh đã trả lời phỏng vấn của báo, đài ở Mát-xcơ-va chắc chắn làm Hồ lo ngại.
Về đến Hà-nội, mafia đỏ họp hội nghị trung ương từ 19 đến 24-4-1956 để nghe Trường Chinh phổ biến về nghị quyết 20 của Nga-xô. Khi còn ở Nga thì cả Hồ và Trường Chinh đều đã ký kết ủng hộ quan điểm của nghị quyết 20 của Nga-xô. Hồ phải ký là đương nhiên vì bao giờ Hồ cũng tuân lệnh mẫu quốc Nga-xô của hắn. Còn Trường Chinh, một tên giáo điều đặc sệt cho đến cả cái bí danh lẫn các “tác phẩm” của hắn, mà lại “hồ hởi” ký mà không hề có tý thắc mắc nào thì lại khác. Cho nên trong hội nghị phổ biến nghị quyết 20, bọn Lê Duẩn, Nguyễn chí Thanh, Hoàng văn Hoan, Trần quốc Hoàn, Xuân Thủy, Trần hữu Dực đã tranh cãi không tán thành, vì thế hội nghị thành “hội đồng chuột” của Lafontaine, nghĩa là không đi đến quyết định nào. Tỉnh táo điểm những bộ mặt chống nghị quyết 20 của Nga-xô thì sẽ thấy toàn là những kẻ được Hồ cất nhắc. Cho nên ta thử đặt câu hỏi: thực hiện nghị quyết 20 “tức chống sùng bái cá nhân” ở Việt Nam thì có lợi cho ai và có hại cho ai thì sẽ hiểu.
Dù có mù thì cũng thấy, nếu mafia đỏ Việt Nam thi hành nghị quyết 20 của Nga-xô thì kẻ bị ăn đòn đưa đến bị hạ bệ là Hồ! Còn không thi hành nghị quyết 20 của Nga-xô thì Trường Chinh mất cơ hội ngàn vàng để hạ bệ Hồ mà bước lên ngai chủ tịch đảng. Về bọn Lê Duẩn, Nguyễn chí Thanh, Lê đức Thọ, Trần quốc Hoàn, Xuân Thủy thì thi hành hay không thi hành nghị quyết 20 của Nga-xô cũng chưa đụng gì đến cái ghế của chúng.
Vì thế ta có thể kết luận rằng chính Hồ là kẻ giật dây lũ Lê Duẩn trong vụ nghị quyết 20 này của Nga-xô. Bởi nếu không, với cương vị “chủ tịch đảng” và với nguyên tắc “dân chủ tập trung”, một mình Hồ cũng đủ quyền quyết định phải thi hành nghị quyết 20 của Nga-xô, chưa kể đến Trường Chinh là “tổng bí thư” vẫn đang là một sức nặng đáng kể. Cho nên Hồ là kẻ chủ mưu bày ra trò tranh cãi này để vừa né được quả tạ “chống sùng bái cá nhân”, vừa được tiếng là tôn trọng ý kiến trung ương (mà chỉ một lần duy nhất trước đó Hồ thực thi là “tiếp tục hút thoải mái thuốc lá thơm Craven A”, khi còn trong chiến tranh với thực dân Pháp, đang có nhiều khó khăn, nghèo nàn).
(Còn tiếp)
(Theo Web Hồn Việt - http://hon-viet.co.uk/ )
jeudi 14 juin 2007
Inscription à :
Publier les commentaires (Atom)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire