jeudi 26 juillet 2007

Con người trong thời đại cộng sản

Con người trong thời đại cộng sản

31-3-2007
Trang số:9
Phạm Hồng Đức

Con người thì không ai có quyền được chọn cha mẹ, dân tộc, quốc gia. Con người khi sinh ra ai cũng cần sự nuôi dưỡng và giáo dục. Ở một môi trường tốt thì sức khoẻ, đạo đức, trí tuệ phát triển tốt. Ngược lại một môi trường xấu thì thể chất, tinh thần, trí tuệ và đạo đức sẽ suy thoái và cha mẹ, sự giáo dục của nhà trường, hoàn cảnh xã hội, gia tộc, anh em, bạn bè luôn tác động đến nhận thức cũng như tư chất của mỗi con người trong xã hội.

Trong xã hội phong kiến từ xa xưa cho đến thời Bảo Ðại thì mọi tôn giáo đều tự do truyền dạy và phát triển. Ðồng thời tư tưởng nhà nho lấy "Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín" làm gốc luôn được vua quan đề cao và truyền dạy. Nhờ vậy ở thời phong kiến thì tinh thần yêu nước, tinh thần xả thân vì nghĩa, tinh thần tôn trọng lẽ phải, tinh thần nhân ái luôn tồn tại và được nhân dân đề cao.

Trên đây là bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam chúng ta, nhờ bản sắc và các tinh thần quý báu đó nên nhân dân ta đã đánh đuổi được hàng chục đợt xâm lăng của đế quốc Trung Hoa, cũng như thực dân Pháp, sau là "giải phóng" miền Nam. Chính nhờ vậy nên trong thời đại phong kiến đã có câu "Thật thà hơn cha khôn khéo", câu này đã phản ánh đúng tinh thần của dân tộc ta trong thời đại phong kiến.

Chúng ta ai cũng biết rằng chủ nghĩa Mác đã ra đời ở Ðức. Sau đó Lênin đã áp dụng thành công ở nước Nga vào tháng 10/1917. Sự thực chủ nghĩa Mác - Lê nin là một tư tưởng ngoại lai đã được những người cộng sản đưa về áp đặt cũng như truyền dạy cho nhân dân Việt Nam chúng ta. Chủ nghĩa Mác - Lê nin là một chủ nghĩa tam vô (không gia đình, không nhà nước, không tín ngưỡng) và luôn coi tư hữu là nguồn gốc của bóc lột. Bởi vậy Mác đã viết "Muốn phá tư hữu hãy phá thẳng vào gia đình" và luôn coi đấu tranh giai cấp là nguồn lực thúc đẩy phát triển xã hội. Cho nên Ðảng luôn dạy con người ai cũng phải thấm nhuần đảng tính, giai cấp tính. Luôn coi căm thù, đấu tranh, thủ đoạn là tiêu chí của mọi đảng cộng sản và các đảng viên cộng sản. Chủ nghĩa Mác - Lê nin luôn coi vật chất quyết định tinh thần. Nhưng sự thật chủ nghĩa Mác - Lê nin lại rất lo sợ tinh thần cá nhân, tinh thần tự do trỗi dậy và phát triển. Nên Mác đã viết "...Lý luận cũng trở thành lực lượng vật chất khi nó thấm nhuần vào đầu óc mọi người" rõ ràng là một học thuyết ngu xuẩn và lừa dối.

Sự thật thì nền giáo dục của các đảng cộng sản đi theo chủ nghĩa Mác - Lê nin hoàn toàn trái với nhân tính, trái với bản sắc văn hoá "Chân, thiện, mỹ" của dân tộc ta.

Chính vì vậy mà sau 75 năm ra đời, 52 năm cầm quyền Ðảng cộng sản đã đưa dân tộc Việt về kinh tế thì nghèo đói, lạc hậu, về đạo đức về nhân cách tinh thần yêu nước thì con người hôm nay là hoàn toàn suy thoái và sụp đổ. Bởi xã hội không còn đạo đức cho nên trong thời đại cộng sản đã ra đời những câu "Thật thà ăn cháo, lếu láo ăn cơm" hoặc "thẳng thắn thật thà thì thua thiệt - lỗi lầm luồn lọt lại lên lương". Những câu này đã phản ánh đúng bản chất con người xã hội thời đại cộng sản.

Một xã hội mà Ðảng, chính phủ luôn dùng những lời hoa mỹ để ru ngủ, để lừa dối nhân dân. Một đất nước chỉ có hơn 80 triệu dân mà có hơn 600 tờ báo, hàng trăm đài phát thanh truyền hình và mọi văn nghệ sĩ đều là người của Ðảng, viết và nói theo Ðảng thì sự tuyên truyền, lừa dối của Ðảng thật là ghê gớm quá.

Một đất nước mà tham nhũng, ăn hối lộ từ Trung ương đến địa phương đến tận xã, làng và ở mọi cấp, mọi ngành thì còn có ai có đạo đức, có nhân cách nữa.

Một đất nước mà ai nói thật lòng mình, nói thật tình cảnh của đất nước thì bị Ðảng bắt tù và quy cho đủ thứ tội thì làm sao mà có người thật thà được.

Một đất nước mà các học vị cao quý "Giáo sư, tiến sỹ" ai cũng có thể dùng tiền mua được thì làm sao mà giáo dục được con người và có nền giáo dục tiến bộ, phát triển được.

Một đất nước mà các danh hiệu cao quý "lão thành cách mạng - tiền khởi nghĩa". Các chế độ đại ngộ "hưu trí, thương binh" cũng bị cán bộ của Ðảng đem ra bán thì tiền của dân, của nước có ai quản lý nổi nữa.

Một đất nước mà đại biểu quốc hội "Ðại diện cho dân, được dân bầu ra" cũng không giám nói thật lòng mình và không dám nói gì cả. Thì nhân dân là cái gì đối với những kẻ có quyền uy thật sự.

Một đất nước mà các quyền chính đáng của dân bị đảng cướp đoạt hết thì dân còn biết nói với ai.

Một đất nước mà Ðảng, Nhà nước luôn lừa dối nhân dân, ngành ngành lừa nhau, người người lừa nhau để cướp đoạt, để sống, để tồn tại, để hưởng thụ thì đất nước đó còn có ai là con người ra người nữa.

Một đất nước mà tình cảm thiêng liêng gia đình, gia tộc cũng bị băng hoại, chối bỏ nên cha con lừa nhau, vợ chồng, anh em gia tộc lừa nhau, giết nhau thì xã hội làm gì còn có tinh thần yêu thương nữa.

Một đất nước mà mọi người coi tham ô, lừa đảo, giết người, trộm cướp, hủ hoá là chuyện thường tình của xã hội và luôn phải nghe hoặc thấy hằng ngày thì cả xã hội còn có ai có liêm sỷ nữa.

Một đất nước mà trộm cướp, giết người, tham ô lừa đảo ở khắp mọi nơi đâu cũng có. Mà những kẻ ăn cướp trắng trợn nhất lại là những kẻ có quyền hành thì đất nước làm sao mà thịnh vượng được.

Một đất nước mà người công dân bình thường muốn làm người cũng rất khó bởi nếu anh lương thiện thật thà thì bị người đời lợi dụng và chê là không hiểu thời. Còn nếu làm cán bộ mà thật thà, thẳng thắn thì bị Ðảng, những người của đảng giết hoặc đẩy ra khỏi tổ chức. Như vậy thì đất nước còn có ai trung với nước, hiếu với dân nữa.

Ðảng cộng sản hiện nay do tham nhũng lan tràn nên Ðảng luôn kêu gọi đảng viên "phê và tự phê" thì cũng chẳng khác gì câu khẩu hiệu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh" hoàn toàn dối trá mà thôi. Một đất nước thì cần có cơ chế chính trị đúng đắn để buộc mọi người phải sống và làm việc theo pháp luật. Ðảng trị, độc tài tuyệt đối thì Ðảng cũng không làm việc theo luật pháp và chả có ai làm việc theo pháp luật cả. Ðất nước nào cũng vậy cái đức là gốc, luật pháp là ngọn. Khi cái gốc đã chết thì cái ngọn héo rồi chết là tất yếu.

Một Ðảng cầm quyền trong 32 năm đã đưa đất nước đến bờ vực thẳm nên đến năm 1986 Ðảng đã phải hoàn toàn từ bỏ chủ nghĩa, lý tưởng, tiêu chí ban đầu của mình để đi vào kinh tế thị trường, thực tế là đi theo chủ nghĩa tư bản. Nhưng Ðảng vẫn luôn hô hào "Chủ nghĩa Mác - Lê nin" thì còn gì là hiện thực, còn gì là lẽ phải nữa.

Ðất nước Việt Nam nếu đạo đức và lòng người bị băng hoại như thời cộng sản ngày nay thì dân tộc ta không thể đánh đuổi được thực dân Pháp.

Chắc chắn trong 4000 năm lịch sử của dân tộc. Chưa bao giờ đất nước lại suy thoái đạo đức như thời cộng sản. Con người thời nay không có niềm tin, không có đạo đức và chỉ sống vì bản thân mà thôi. Bởi vậy chả có mấy ai nghĩ đến dân đến nước cả. Sự thực Ðảng cộng sản là một đảng ăn cướp sống trên luật pháp và luôn đàn áp nhân dân mà thôi. Ðảng cộng sản phá hoại đất nước dẫn đến kinh tế nghèo đói, nhân dân lạc hậu. Ðồng thời phá hoại cả nhân cách, đạo đức con người nữa.

Khổng Tử có câu "Thật vô phúc khi được sinh ra trong một gia đình giàu có, nhưng lại không có nền giáo dục". Gia đình giàu có mà con cái không có nền giáo dục, không có đạo đức thì đồng tiền đã tạo điều kiện cho con cái truỵ lạc, hưởng thụ dễ trở thành những kẻ bất nhân, phá hoại mà thôi. Chính vì vậy mà thời nay hàng triệu gia đình bị tan nát, đổ vỡ do cha mẹ, do con cái không có đạo đức, nhân cách gì cả.

Pascal khi luận về con người ông đã viết "Con người vừa là thánh, vừa là thú". Con người sống trong chủ nghĩa cộng sản thì phần thánh biến mất. Còn phần thú thì trỗi dậy phát triển không ngừng.

Nhưng thật may cho loài người và dân tộc chúng ta bởi con người thì "Nhân chi sơ tính bản thiện" và con người có đạo đức tự nhiên. Nhờ vậy chúng ta có quyền hy vọng xây dựng lại đất nước, xây dựng lại con người sau khi Ðảng cộng sản đổ vỡ.

Trong sách (Cổ học tinh hoa) chuyện 231 chuyện "Quý lời phải nói" Tôi xin trích: Thanh Quyên "Nếu nhà vua khéo sửa sang chính sách nước Tấn, trong được lòng quan, ngoài được lòng dân, thì dù cho còn con nhà họ Loan mà làm gì được vua . Nhưng nếu nhà Vua không sửa sang chính sách nước Tấn. Trong mất lòng quan, ngoài mất lòng dân, thì ngay những người ngồi trong thuyền này cũng đều là con nhà họ Loan cả (họ Loan là họ chống lại vua Tấn).

Vua khen: Người nói phải lắm

Chính Ðảng cộng sản do độc tài toàn trị bất nhân nên đã làm mất lòng quan và mất lòng dân. Cho nên hiện nay đã có hàng vạn đảng viên đảng cộng sản, hàng nghìn trí thức học giả tâm huyết với dân, với nước đang đấu tranh, phê phán cũng như kêu gọi đảng cải cách triệt để đi vào dân chủ đa nguyên thật sự. Công nhân nay đã đình công, nông dân nay đã biểu tình chống lại đảng tham quyền, tham ô ngày một nhiều. Ðảng cộng sản không thể tồn tại nổi với trào lưu và tinh thần dân chủ đang ngày càng một lớn mạnh hiện nay.

Một người khôn ngoan thì sống vì lẽ phải, vì nhân dân và luôn biết trước thời đại, biết trước đất nước rồi sẽ đi về đâu. Bởi vậy tôi mong mọi người hãy nhìn thẳng vào sự thật cùng nhau đoàn kết đấu tranh để đưa nước ta đi lên dân chủ giàu mạnh thật sự.


Phạm Hồng Đức
Huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An
(gia ddinh cach mang)

Trang số : 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Trang số:10

http://www.to-quoc.net/memo/archives/index2.html


Ghi chú:
Lenine cướp chính quyền của Nga hoàng 1917
---------

HY Pham Minh Man:
Cách suy nghĩ, cách nói, cách làm không nhằm đến mục tiêu nầy, có phải do sự soi dẫn của Thánh Thần, do tinh thần đức tin, hay do tà thần, do tâm thần, hoặc do tinh thần thế tục hay do thần khí nào khác?
+ Được tự do mà không được “ăn học” (ở trong rừng ra), nhiều người không thể sống xứng với phẩm cách làm người. Vì lẽ không được “học”, nhiều người chỉ biết “ăn”. Ăn mày, ăn cắp, ăn trộm, ăn cướp. Khi có thế lực, thì ăn hiếp, ăn gian, ăn hối lộ. Khi có tiền, thì ăn xài, ăn chơi….
+ Vậy để có thể sống xứng với phẩm cách làm người, cần có sự giáo dục toàn diện. Giáo dục toàn diện gồm có trí dục, thể dục, kỹ dục và đức dục. Đối với người công giáo, phải cộng thêm dưỡng dục đức tin

trich

Phỏng Vấn Luật Sư Bùi KimThành : không điên bị buộc phải điên !

Phỏng Vấn Luật Sư Bùi KimThành không điên bị buộc phải điên !

Biến Cố Vịnh Bắc Việt: Những Bí Ẩn Trong Vụ Hải Quân Trung Quốc Tàn Sát Ngư Dân Việt Nam

Biến Cố Vịnh Bắc Việt: Những Bí Ẩn Trong Vụ Hải Quân Trung Quốc Tàn Sát Ngư Dân Việt Nam

dimanche 22 juillet 2007

Kính gởi đồng bào Dân Oan.


Lá thư Thăng Tiến
Kính gởi đồng bào Dân Oan.

20.07.2007

Kính thưa đồng bào,

Vào ngày mùng 3 tháng 2 năm 1930, Hồ Chí Minh đã đem vào xã hội thuần lương của Việt Nam lý thuyết tam vô là vô gia đình, vô tổ quốc, vô xã hội và đã gầy dựng trên đất nước này một cơ sở của cộng sản với tên gọi là đảng Cộng Sản Đông Dương.

Từ ngày cộng sản xuất hiện trong cuộc sống của xã hội Việt Nam đến nay, người dân Việt Nam không có được một niềm vui, không có được một ngày an bình. Trái lại, dân chúng Việt Nam từ cả hai miền đã phải chứng kiến những thảm cảnh không hề có trong lịch sử dân tộc ta:

1. Trong cuộc chiến kháng pháp dành độc lập, CSVN đã khống chế tổ chức Việt Minh, bên ngoài thì hô hào toàn dân kháng chiến, nhưng trong thực tế thì cài đặt bao nhiêu mưu mô thâm độc để thủ tiêu những nhà ái quốc và đồng bào nhằm thực thi mưu đồ độc chiếm chính quyền.

2. Sau khi cướp công kháng chiến của toàn thể dân, vào ngày mùng 2-9-1945, Hồ chí Minh và đồng bọn đã thiết lập chế độ Cộng Sản trên phần đất của quê hương Việt Nam và đày một nửa đất nuớc Việt Nam vào ách thống trị bạo tàn của họ.

3. Để thực hiện chính sách tam vô, Hồ chí Minh và đồng bọn đã ký hiệp định chia đôi đất nước vào ngày 20-7-1954, để chúng được tự tung tự tác trên một nửa lãnh thổ của Việt Nam Chẳng bao lâu sau, chính Hồ chí Minh và Đặng Xuân khu đã mở chính sách đấu tố nhân dân trên toàn diện đất bắc với một mục đích duy nhất là giết người và cướp của. Cuộc được gọi là hội đáu tố này đã làm cho hơn hai trăm ngàn gia đình Việt Nam rơi vào trong thảm cảnh. Người thì bị chúng giết giữa chợ, giữa đồng, kẻ thì bị chúng đày lên vùng rừng thiêng nước độc mà chết dần chết mòn. Đây là thời cực thịnh của cộng sản Việt Nam. Ruộng lúa thì thành ruộng máu và chả có bờ lau bụi cỏ nào mà không có xương ngươì bị chết chém.

4. Vì muốn tiêu diệt tình người, xoá bỏ nền tảng nền luân lý, đạo đức của gia đình, của xã hội Việt Nam, họ đã ngày đêm huấn luyện, đào tạo ra hàng ngũ cán bộ, đảng viên vô nhân tính rồi đồng loạt tung hàng ngũ cán bộ này về quê quán mà đấu tố bố mẹ ruột, bố mẹ chồng, bố mẹ vợ, anh em , thân nhân của chính mình và những người đã từng nuôi đưỡng họ trong cuộc kháng chiến vừa qua. Đây là một chính sách dã man nhất trong muôn vàn những chính sách bất nhân của cộng sản đã thi hành. Bởi vì với cuồng lực, họ đã tận tình chém giết tình nghĩa của đồng bào ta. Họ đã dùng bạo lực tuyệt đối để khủng bố đời sống của nhân dân ta. Họ đã chém chết, thủ tiêu niềm tin của con người với con người.

5. Phạm bấy nhiêu tội với nhân dân miền bắc còn chưa thỏa mãn lòng độc ác, Hồ chí Minh và bọn tay sai Phạm văn Đồng còn ký những cái gọi là nghị định thư để nhượng đất, nhượng sông biển của tiền nhân cho bọn Tàu cộng. Đồng thời, để khỏa lấp tội ác của mình, họ lại đẩy cả nhân dân miền bắc vào cuộc chiến với miền nam bằng chiêu bài “ chống Mỹ cứu nước’ để hàng triệu nhân sinh đồ thán, chết oan.

6. Rồi trong cuộc chiến, Hồ chí Minh và CSVN đã không từ bỏ mọi hành vi độc ác nào. Nhà thờ, chùa chiền, trường học đều là những mục tiêu của đạn pháo Nga Tàu. Đã thế, như những con thú hoang, họ đã tàn sát gần năm ngàn đồng bào Huế trong tết Mậu Thân mà họ gọi là chiến thằng để dâng công cho đảng cộng sản quốc tế.

7. Rồi khi cuộc chiến tàn, đồng bào miền nam đã phải chứng kiến những cảnh trộm cướp mà kẻ cướp chính là nhân viên cường quyền, công an cán bộ và bộ đội Việt cộng tung hoành ở miền nam. Có thể nói, họ đã vặn đến từng con ốc, tháo từng cái cánh cửa của những cơ sở miền nam mà đem về làm tài sản riêng của mình.

8. Trộm cắp hết của công ở miền nam vẫn không thỏa túi tham, họ đã mở ra sách lược đánh tư sản mại bản, rồi nông công thương ở miền nam. Mục đích của những cuộc tấn công này là vơ vét, cướp đoạt tài sản của nhân dân cho vào túi tham riêng.

9. Đã phạm bấy nhêu tội ác vẫn chưa thỏa dạ, họ còn xô đẩy người dân Việt ra khơi để cướp nhà, cướp đất của những người ra đi. Nơi thì dân chúng đi chui, nơi thì cường quyền, công an địa phương tổ chức bán bãi, bán tàu, lấy vàng bạc chia chác cho nhau. Mặc cho con tàu không đủ tiêu chuẩn an toàn chở cả ngàn, cả trăm người chìm xuống lòng biển khơi, miền là họ đã làm xong nhiệm vụ thu tiền bán bãi.

10. Khi không thể vơ vét vàng bạc, tiền của của nhân dân qua việc vượt biên được nữa, họ liền mở ra những chương trình gọi là quy hoạch, xây dựng, cũng không ngoài mục đích tìm cách vơ vét tài sản của đồng bào. Nay vùng này lên quy hoạch, mai vùng khác sắp khởi công. Người dân lóng ngóng như gà phải cáo, sợ mất đất mất nhà không, liền bán rẻ tài sản của mình cho bọn lái thầu CSVN. Kết qủa, nhà đất lại mỉm cười chạy vào túi của bè lũ gian ác CSVN.

11. Hết moi tiền của trong quy hoạch, cộng sản Việt Nam lại quay sang ngoại quốc mà khẩn khoản van nài những người mà họ láo lếu gọi là cao bồi đĩ điếm chạy theo ôm chân đế quốc để van lạy họ trở về thăm quê hương. Và nhờ những người này mà họ lại có thêm được những đồng ngoại tệ để mà chung vốn cho nhau làm giàu.

12. Sau 32 năm CSVN cưỡng chiếm miền nam. Người dân trong nước một ngày một khốn khổ lầm than, xã hội thì xa đọa, văn hóa thì suy đồi, trong lúc tham quan, cán cộng một ngày một thênh thang trong cảnh xa hoa, hưởng lạc. Không có một cấp cán bộ nào của đảng và nhà nước cộng sản mà không biết trộm cắp hối lộ, riêng cấp lãnh đạo thì trở thành những nhà tỷ phú có hàng tỷ, hàng trăm triệu đô la gởi trong các ngân hàng của ngoại quốc. Tiến ấy ở đâu ra, nếu không phải là trộm cướp vơ vét của nhân dân và tranh nhau bán tài nguyên của đất nước cho ngoại nhân?

13. Nay cái chiêu bài chống Mỹ cứu nước đã rớt xuống rồi. Từ Võ văn Kiệt, Phan Văn Khải đến Nguyễn tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết đều một lòng cúc cung, cúi rạp mình xuống mà van lạy Mỹ ban bố cho một chút ân huệ ngoại giao với lời xin hứa trăm điều ngoan ngoãn .Nhưng lòng phản trắc của loài bất nhân đã vốn sẵn trong máu huyết., nên ngay sau khi họ nhận được chút ân huệ của tây phương, họ đã….rửa mặt cho cái nhục nhã kia bằng cách Bịt Mịệng Công Lý và đàn áp dân oan,

14. Tấm hình họ bịt miệng Linh Mục Nguyễn văn Lý thì nay đã đi cùng khắp thế giới, đến tận tay và vào từng nhà rồi. Cho đến đời đời họ không bao giờ rửa sạch được nhơ nhớp này . Hơn thế, tấm hình ấy đã là bản án tử cho họ và nhân dân Việt Nam chúng ta đang vững vàng tiến bước trên đường giải thể chế độ cộng sản bất nhân này.

Thưa đồng bào dân oan trong cả nước. Không phải chí có những người đi biều tình mới là dân oan, nhưng toàn thể dân ta đã và đang là dân oan, là nạn nhân của một chế độ phản nhân bản, phản khoa học, phản tiến bộ đã bị thế giới loài người chính thức lên án, từ bỏ, nhưng rất đáng buồn còn tồn tại trên quê hương Việt Nam yêu dấu của chúng ta. Đồng bào ta có đi khiếu kiện đến hết đời cũng không bao giờ có được câu trả lời của bọn cướp bất nhân. Theo đó, chúng ta chỉ còn một con đường duy nhất để đi. Hãy cùng nhau vùng dậy giải thoát khỏi ách kềm kẹp của giai cấp cán bộ cộng sản thống trị để đem yên vui, no ấm lại cho mình và cho con cháu mai sau..

Hỡi toàn thể đồng bào, Giờ Lịch sử đã điểm, tiếng trống Diên Hồng đang liên hồi thôi thúc chúng ta vùng lên đòi quyền sống. Đảng Thăng Tiến Việt Nam nguyện chung lòng chung sức với toàn thể đồng bào trong việc khai mở chiến dịch Diệt độc tài, gian ác cứu Nước.

Dân oan nhất định thắng. Độc tài cộng sản Việt Nam nhất định phải bị tiêu diệt.

Thân ái kính chào đồng bào

Đảng Thăng Tiến Việt Nam
http://tiengnoitudodanchu.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=4376

dimanche 15 juillet 2007

Bế mạc Hội nghị Trung ương 5

Bế mạc Hội nghị Trung ương 5

15/7/2007

Báo chí là một trong những vấn đề trọng tâm của Hội nghị TW 5
Hội nghị Trung ương Đảng CS Việt Nam lần 5 vừa bế mạc hôm thứ Bảy với bốn nghị quyết mới.
Đó là các nghị quyết về "Công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới", Tăng cường công tác kiểm tra giám sát của Đảng", "Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị"; và "Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước".

Tuy nhiên một trong những kết quả quan trọng nhất của hội nghị lần này vẫn là thống nhất về cơ cấu tổ chức Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII và giới thiệu nhân sự lãnh đạo các cơ quan Nhà nước để Quốc hội bầu và phê chuẩn.

Khi được hỏi đánh giá về Hội nghị TW lần này, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Hoàng Trung Hải, người được cho là sẽ lên làm Phó thủ tướng, đã từ chối trả lời BBC Việt ngữ.

Trong bài phát biểu bế mạc, tổng bí thư Nông Đức Mạnh nói rằng công tác báo chí cần khắc phục bằng được những khuyết điểm kéo dài, bảo đảm báo chí là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước, của tổ chức chính trị - xã hội.

Ông Mạnh nói: “Báo chí là diễn đàn của nhân dân dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật”.

Trừ báo Nhân Dân và báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam trích đăng bài phát biểu của ông Mạnh, báo chí trong nước không đề cập nhiều đến sự kiện này, nhất là vấn đề thay đổi nhân sự cao cấp.

Quốc hội khóa XII sẽ khai mạc phiên thứ nhất tại Hà Nội ngày thứ Năm 19/7 tới. Bầu chọn nhân sự là công tác chủ đạo trong phiên họp Quốc hội lần này.

Cơ cấu nhân sự

Hội nghị Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam được nói đã hoàn tất cơ cấu nhân sự cho các cơ quan quyền lực cao nhất.

Tin từ Việt Nam và các cơ quan truyền thanh nước ngoài nói về một dàn các tân bộ trưởng và phó thủ tướng trong chính phủ.

Theo những nguồn đó, chính phủ sẽ có thêm hai phó thủ Tướng là ông Hoàng Trung Hải và ông Nguyễn Thiện Nhân.

Tổng cộng lại con số các phó thủ tướng là năm người và theo ý của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, thì cả năm đều ngang nhau, không còn chức phó thủ tướng thường trực, hiện nay do ông Nguyễn Sinh Hùng nắm.

Đây chỉ là phương án do Trung ương Đảng đề xuất và còn phải đợi quốc hội thông qua rồi chủ tịch nước phê chuẩn.

Tuy thế, nếu mọi thứ không thay đổi thì cải tổ trong chính phủ được đánh giá là trẻ hóa và trí thức hóa mạnh hơn trước, với các nhân vật 'kỹ trị' có hiểu biết quốc tế tốt hơn nay được đề cao.

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2007/07/070715_partymeeting.shtml

vendredi 13 juillet 2007

Trao đổi Thư tín với Thính giả (ngày 12-7-2007): về HCM

Trao đổi Thư tín với Thính giả (ngày 12-7-2007)
2007.07.12
Việt Long, phóng viên đài RFA

Tuần này vẫn có thư về diễn đàn bạn trẻ, trong đó có một thư rất nóng bỏng của một phụ nữ. Một số thư trả lời bạn Trường Giang, một thư đáp lời lá thư viết cho bạn Trường Giang hồi tuần trước, và nhiều thư liên quan đến những đề tài khác. Chúng tôi sẽ tóm lược và nêu lên được càng nhiều càng tốt, nhưng không dám hứa là sẽ đầy đủ tất cả.
Bấm vào đây để nghe tiết mục này
Tải xuống để nghe

Thư thính giả từ Việt Nam gửi đến Ban Việt Ngữ RFA.
Trước hết mời quý vị nghe một bức thư nóng bỏng, liên quan đến Diễn đàn bạn trẻ, nhờ Nhã Trân đọc dùm:

“Tôi, Ngoc Thuy, xin được gửi một nụ hôn yêu thương đến anh Thanh trong diễn đàn Cảm Nhận Của Giới Trẻ Ngày Nay về Lãnh Tụ Hồ Chí Minh trên RFA ngày 4 tháng 7 vừa qua của Trà Mi, vì anh Thanh đã khổ tâm tìm kiếm sự thực về vĩ nhân Hồ Chí Minh mà Liên Hiệp Quốc phủ nhận rằng ‘đáng tiếc chưa có văn bản nào công nhận là một danh nhân văn hoá’.

Qua RFA, tôi gửi đến bạn Thanh, tình yêu mãnh liệt và nồng cháy của tôi. Ngọc Thuý, một phụ nữ Việt Nam quê ở Gò Công.” Thiệt là nóng sốt phải không các bạn? Thư bạn Frank Nguyễn hỏi điạ chỉ email của bạn Thanh mà vừa được trao một nụ hôn ảo đó, thì đã được chuyển đến Thanh để tuỳ bạn ấy định lịêu.

Bạn Thanh có thư cảm ơn tất cả các bạn đã dành cho Thanh quá nhiều cảm tình. Ba email từ Việt Nam và một từ nước ngoài nói là muốn tham gia chương trình diễn đàn bạn trẻ, thì đã được trao cho Trà My, không nêu danh tính cùng số điện thoại ở đây.
Về lãnh tụ Hồ Chí मिन्ह

Thư bạn Vinh viết: “Diễn Đàn Bạn Trẻ về lãnh tụ Hồ Chí Minh thật tuyệt vời. Hoan hô Trà Mi và các bạn trẻ, đặc biệt là anh Thanh.”

Thư của ông Vũ Đình Bổn: “Vì in lầm hay cố ý, sách giáo khoa dạy chúng ta: hai cọng hai là ba. Nếu là học sinh khá, ta sẽ kiểm chứng qua thầy cô, cha mẹ, bạn bè, hoặc qua các nguồn tài liệu, sách vở khác.

Nếu học như con vẹt, chỉ biết lập lai những gì được in, được dạy, mà không kiểm chứng, thì có khác chi con ếch nó ngồi đáy giếng, không biết trời cao đất dày là gì, hoặc như con ngựa thồ, mắt bịt tai che, chỉ biết một đường là tiến lên phía trước mà không biết mình tiến về đâu!”

Thư của bạn Rambo Phạm, xin tóm lược: “Hoan hô việc làm vô cùng tích cực này của ban Việt Ngữ RFA। Rất tuyệt vời về việc giải tỏa huyền thoại về ông HCM. Qúy đài là một cơ quan truyền thông được nhiều thính gỉa tại quê nhà đón nghe nên ảnh hưởng của RFA vô cùng quan trọng.

Vì bóng ma thần tượng HCM bao trùm cả đất nước hình chử S. Vì Cộng Sản VN luôn chủ trương thần thánh hóa ông HồChi Minh để còn chỗ dựa vững chắc cho độc quyền toàn trị. Các cơ quan truyền thông VN luôn tuyên truyền theo lệnh của Đảng Cộng Sản VN, nên các bạn trẻ trí thức trưởng thành sau 1975 bị nhồi sọ từ khi các bạn mới lên 5 tuổi qua bài hát: "Ai yêu bác HCM hơn các em nhi đồng..."

Sau 12 năm học trung học và 4 năm ở Đại Học thì thần tượng HCM đã ăn sâu đậm trong tim,óc. Chúng tôi có vài người cháu con của cô em đang theo học tại DH KT thương mại tại SG trao đổi qua điện thoại các cháu tôi luôn xem HCM là "Thánh" dù chúng tôi luôn gởi tài liệu và giải thích về hiện tượng HCM, nhưng nói thật tơ'i hôm nay các cháu tôi vẫn còn hoài nghi những điều tôi trình bày.”

Về thư của bạn Trường Giang tuần trước

Một đề tài khác được quan tâm, là thư của bạn Trường Giang tuần trước, nội dung chỉ trích đài RFA làm việc xấu theo gương xấu của Mỹ. Thư bạn Paul-dta viết:
“Chào quý đài RFA. Theo tôi nghĩ: đồng chí Trường Giang đã giác ngộ triệt để tư tưởng Hồ Chí Minh và thấm nhuần chủ thuyết cộng sản nên không muốn đất nước Việt Nam rơi vào địa ngục tư bản, mà phải theo đường lối cộng sản xã hội chủ nghĩa là một thiên đường cho nhân loại, cũng như Bắc Hàn đang theo đuổi.

Có phải ý của đồng chí ấy là như vậy chăng? Người Mỹ đã bỏ nhân mạng và tiền bạc vật chất trong các cuộc chiếm, như chiến tranh thế giới thứ hai, rồi bán đảo Triều Tiên và Việt Nam… để ngăn làn sóng đỏ cộng sản, và mới đây là những cuộc chiến chống khủng bố.

Thử hỏi đồng chính Trường Giang, Đế Quốc Mỹ thu lợi được những gì? Đất nước Việt Nam còn trong đói nghèo sau hơn 30 năm hoà bình, đảng CSVN vẫn còn bóp chẹt người dân khiếu kiện và những người bất đồng chính kiến, nạn tham nhũng tràn lan từ khắp nơi tại quê nhà, báo chí có fám chỉ trích sai trái của Đảng hay không, người dân có được tự bàu chọn người lãnh đạo quốc gia hay chăng, và còn nhiều điều mà tại Việt Nam vẫn còn bất cập.

Đồng chí Trường Giang cảm thấy cái nhục nào hơn khi phải van xin kẻ tù Đế Quốc Mỹ vào WTO và quy chế bình thường vĩnh viễn thương mại PNTR. Chủ tịch CSVN Nguyễn Minh Triết sang Hoa Kỳ được cộng đồng người Việt hải ngoại chào đón như thế nào? Nguyên thủ quốc gia khác khi đến Mỹ các cộng đồng quốc đó đón tiếp thật thân ái trân trọng, còn Việt Nam thì ngược lại, lý do vì sao? Tại sao người ta thù ghét cộng sản đến như vậy? Đồng chí Trường Giang có hiểu vì sao không?

Hy vọng những lời lẽ này đến với những ai có những ý tưởng như đồng chí vẫn nhìn với đôi mắt màu đỏ cộng sản.”

Một thư khác của bạn trẻ TNH viết, có vẻ thông cảm hơn: “ Cháu ở TPHCM, kêu bác Trường Giang bằng bác, vì thấy bác ấy còn tư duy thời chiến tranh lạnh quá đi, tức nhiên là già hơn ba cháu. Thư bác nói nghe như trong mấy cuốn sách cũ của Nhà nước ta mà bây giờ cũng khó kiếm rồi, cháu đọc được là nhờ may thấy còn sót trong mấy thùng sách bán ký lô.

Bác TG nên nhớ là chủ tịch nước của ta mới ký đâu gần 7 tỉ đô la với Mỹ. Bác nói đồng tiền Mỹ dơ bẩn là có ý đồ nói chủ tịch nước muốn kiếm về 7 tỉ cái sự dơ bẩn phải hông? Bác coi chừng cháu kêu công an tới hỏi thăm làm việc đó nghe...” Thư bạn Nguyen từ Arizona, Hoa Kỳ, xin đọc sau khi lược bỏ vài chữ hơi quá đáng: “Thưa anh Trừơng Giang, hiện nay tôi đang sống tại tây nam Mỹ, rất hân hạnh được trao đổi với anh qua làn sóng và web của RFA. Trước hết tôi xin hỏi sức khoẻ của anh.

Vừa rồi qua mục thư tín của đài tôi có nghe anh nói trong chúng tôi ai là ‘kẻ phản bội ôm tử bản Mỹ để ăn những đồng tiền dơ bẩn’ v..v.. Thì tôi xin trả lời cho cái tư duy tà kiến cảu anh như sau:

Thưa anh Giang, anh quên rằng chỉ cách đây mới hơn 2 tuần thôi thì ông Nguyễn Minh Triết cùng một đoàn tháp tùng đông đảo có các thương gia đã qua Mỹ với mục đích gì? Có phải là để ôm các ông tư bản Mỹ để ăn các ‘đồng tiền dơ bản’ như anh nói không, xin vui lòng trả lời cho tôi nhé.

Bên cạnh, đã hàng năm nay rồi chính quyền Việt Nam bắt buộc phải mở cửa để mời các tư bản Đài Loan, Đại Hàn, Singapore, Nhật Bản v.v.. vào Việt Nam có phải để họ đem đôla do8 bản vào như anh nói không anh Giang?

Các ông quan chức của các nước độc tài thừơng hối lộ tham ô ngập đầu thì là ăn những thứ tiền ‘trong sạch’ phải không? Nói ra tôi biết ngay là anh thuộc thành phần nào trong XH VN rồi, anh sống sung túc mà, anh có biết nỗi nghèo khổ của bảo người dân không? Chúc anh luôn khoẻ.

T/B: Tôi xa Việt Nam đã lâu nên khi tôi nói năng có chỗ nào sai phạm mong anh bỏ qua cho nhé. Thân chào anh…”

Bạn Trường Giang tuần này có viết thư, nhưng thư đả kích một người khác với những lời lẽ nhục mạ. Vậy là vi phạm hai điều: dùng diễn đàn này cho ý riêng, và sử dụng ngôn từ không thích hợp. Thêm nữa, trong thư bạn tự nhận bạn là người trẻ tuổi sống ở nước ngoài, nhưng chúng tôi lại phát hiện email của bạn gởi đi từ Việt Nam. Thế là không nói đúng sự thật. Vì vậy chúng tôi không đọc thư của bạn lần này.

Tiện đây xin nhắc lại luật chơi của chúng ta về xuất xứ của các lá thư. Qúy vị có quyền dùng bút danh, không dùng tên thật, có quyền nói hay không nói đến tuổi tác hay nơi gửi thư... để tránh phiền phức, sách nhiễu từ nhiều phía khi phát biểu về những vấn đề tế nhị.

Nhưng yêu cầu đừng nói khác sự thật, ví dụ nam giới mà xưng là phụ nữ, người trẻ nhận là người già, hoặc ngược lại, vân vân. Như vậy để chúng ta giữ nguyên tắc thành tín với nhau, trên căn bản tự giác không nói sai sự thật. Mong được các bạn đồng ý, nhé. Thư ký tên là duy-đ- k: “Tôi hiện tại sống ở Bắc Âu là những nước Dân chủ của Châu Âu này… nên khi nghe bức thư của ông Trường Giang nói về những nước Đông Âu là những nước cộng sản thuộc khối Liên Xô cũ mà ông nói về vấn đề Kosovo, Bosnia có hàng trăm ngàn người bị giết và bị chôn sống đó, cũng chính là do cái chủ nghĩa cộng sản và chế độ độc tài đó thôi.

Chính vì vậy cho nên Liên Hiệp Quốc mới vào để ngăn chặn, lính Mỹ phải đổ máu, và có rất nhiều người dân ở đó phải đi ti nạn cộng sản khắp nơi, không khác gì cộng sản Việt Nam, giết người chôn sống tại cố đo Huế ở Việt Nam Mậu Thân 1968. Hôm nay những nước Đông Âu này đã khá hơn là nhờ chủ nghĩa cộng sản đàn anh Liên Xô sụp đổ. Bây giờ họ cũng đang phát triển như những nước Tự do.

Thế kỷ 21 rồi ông Trường Giang ơi. Nên nhớ một điều: Cộng sản có mặt ở nơi nào thì chết chóc, đổ vỡ, tang thương xảy ra ở nơi đó. Cộng sản có mặt nơi nào thì xương thành núi, máu thành sông, tội ác tày trời, đời đời nhớ mãi. Xin chào.”
Một lá thư của bạn Lieu Tu Nguyen, phản bác những thư viết về chuyến đi của chủ tịch Nguyễn Minh Triết

“ Các vị nói chúng tôi là "ĐỪNG NGHE CỌNG SẢN NÓI MÀ XEM CỘNG SẢN LÀM.". Nhưng tại sao các vị ko nói ngược lại là :"ĐỪNG NGHE MỸ NÓI MÀ XEM MỸ LÀM"? Các vị có thấy Mỹ đã làm giúp chúng ta được gì ko?Sao ko giúp cho VN thêm giàu mạnh, người dân ấm no, sao cứ chỉ trích làm gì?Chỉ nói và nói, chả làm gì cả. Thế thì có phải là hơi ngược đời?

Đành rằng có những người tham ô ko làm đúng chức trách, nhưng cũng đâu phải ai cũng vậy. Mỹ nói mà Mỹ có làm gì đâu? Biểu tình thì nước nào chả có, VN chẳng ngoại lệ. Bàn tay có ngón ngắn ngón dài, nước nào cũng có cái nhược điểm. Sao ko giúp đỡ gì mà cứ nói và nói ko? Toàn là lời nói gió bay, các vị chỉ có thể nói thôi chứ làm gi được đâu. Mai mốt làm ơn đăng tin nào hay hay 1 chút, tối ngày toàn mấy tin dở hơi, toàn phỏng vấn và toàn nói với nói, xạo cũng chả ai biết.”

Bạn Lieu Tu Nguyen viết một lá thư rất chân thật, nghĩ sao nói vậy, và nói khá dí dỏm. Nhưng bạn trách chúng tôi chỉ nói với nói thì quá oan sai, vì làm phát thanh chẳng lẽ lại không nói? Không nói thì làm gì đây? Bạn lại chê toàn mấy tin dở hơi, OK, thì bạn nghĩ vậy chúng tôi cũng phải chịu, nhưng nói là xạo cũng chả ai bíêt thì xin xác nhận là không có xạo, vì chúng tôi ghét cái vụ xạo xự nhất trên đời. Bạn có thể tin cậy chúng tôi được đấy, nhé.

Thư của một bác cao niên: “Tôi là một thính giả cuả RFA, tên là Vũ Công Tám. Năm nay tôi đã ngoài 70 tuổi và có rất nhiều nỗi bức xúc về chính phủ Việt Nam. Tôi đã hy sinh bao nhiêu xương máu để giành độc lập cho nước nhà, nhưng rồi không nhận được gì ngoài sự phẫn nộ và căm hận về một chế độ thối nát.

Khi tôi tìm đến RFA và nhận được sự đồng cảm qua những phóng sự thực tế, tôi cảm thấy mình đang được nghe sự thật và sự thật. Nhưng bây giờ tôi muốn coi tin tức và nghe đài RFA nhưng không thể. Hy vọng quý đài có thể thường xuyên gửi cho tôi những loạt báo mới nhất được cập nhật hằng ngày, cũng như cách vượt tường lưả để nghe đài. Mong quý đài đáp ứng được nguyện vọng này.”

Thưa bác Tám, chuyên viên kỹ thuật của ban sẽ liên lạc thẳng với bác về chuyện kỹ thuật. Cám ơn bác đã dành cho RFA sự tin cậy và thương mến, khiến anh chị em chúng tôi rất cảm kích.

Thư của bạn Chúc thấy toàn dấu hỏi, không đọc được, vui lòng gửi lại bằng Unicode, VNI hoặc VIQR. Trước khi gởi bạn phải select all và chọn font của unicode hay các program vừa nói, thì chúng tôi mới đọc được. Thư bà Đào thị Phương Lan nhờ công chuyện từ thiện, chúng tôi sẽ tìm hiểu để giúp, nhưng không hứa là giúp được.

Cuối cùng còn các thư sau đây: Thư ông Nguyễn Tấn Nguyên cám ơn về tin liên quan đến nhà văn Trần Mạnh Hảo, thư của viettrade gửi hai bài phát biểu, thư bạn Tấn Nguyên lưu ý về cơn bão Manyi, thư của hạnh thục nêu giải pháp về giao thông cho Việt Nam, thư Minh Lê muốn giới thiệu việc làm.

Xin cám ơn sự lưu tâm của quý bạn, và xin thưa trong số những việc này có nhiều việc chúng tôi không có khả năng giải quýêt giúp. Mong thứ lỗi. Thư bạn Huy Hoàng không rõ viết về việc gì, xin gửi lại với đề mục cho rõ hơn.

Sau hết, những thư về kỹ thuật và thư hỏi bài vở thì đã được trả lời cho từng người, mong qúy bạn hài lòng. Việt-Long kính chào tạm biệt, hẹn các bạn thứ năm tuần sau. Nhớ ghi lịch nhé, ngày 19 tháng 7 nhé.

Tiếng Việt
© 2007 Radio Free Asia
Các tin, bài liên quan
Trao đổi thư tín với thính giả (Ngày 5-7-2007)
Trao đổi thư tín với thính giả (ngày 28-6-2007)
Trao đổi thư tín với thính giả (Ngày 21-6-2007)
Trao đổi thư tín với thính giả (ngày 14-6-2007)
Trao đổi thư tín với thính giả (ngày 7-6-2007)
Trao đổi thư tín với thính giả (Ngày 31-5-2007)
Trao đổi thư tín với thính giả (Ngày 24-5-2007)
Trao đổi thư tín với thính giả (Ngày 17-5-2007)
Trao đổi thư tín với thính giả (ngày 10-5-2007)
Gửi trang này cho bạn

Dân chủ và tập trung dân chủ - NVT

Dân chủ và tập trung dân chủ (I) Phân tích ...
Dân chủ và tập trung dân chủ (Kết)

jeudi 12 juillet 2007

Xây dựng nhà nước pháp quyền một đảng?

Nguyễn Quang
Gửi cho BBC từ Paris

Ông Nông Đức Mạnh là tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam từ nhiệm kỳ trước
Đảng chính trị thường được hiểu như một tổ chức tham gia các hoạt động chính trị nhằm giành được quyền lãnh đạo đất nước.

Các hoạt động của đảng cũng luôn luôn hướng tới mục đích cầm quyền như xây dựng cương lĩnh, vận động cử tri, ... các hoạt động này thường bận rộn nhất trong những kỳ bầu cử. Các cơ quan trong đảng do đó cũng được tổ chức nhằm phục vụ mục đích này.

Thông thường các đảng phái không bao gồm các cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý xã hội bởi đơn giản là khi chưa nắm được quyền thì không thể thực hiện nhiệm vụ này mà phải tập trung vào nhiệm vụ giành chính quyền nói trên, còn khi nắm quyền rồi thì các thành viên đảng đứng trong cơ quan hành pháp là chính phủ, thực hiện quyền và trách nhiệm của mình trong khuôn khổ cơ quan nhà nước này.

Tuy nhiên ở Việt Nam thì Đảng cộng sản Việt Nam, đảng chính trị duy nhất hiện nay, lại bao gồm rất nhiều cơ quan quản lý xã hội và thực hiện nhiều nhiệm vụ quan trọng trong quản lý kinh tế, chính trị và xã hội của đất nước.

Hệ thống lãnh đạo song trùng?

Đảng cộng sản Việt Nam (gọi tắt là Đảng) được tổ chức tương tự như một chính phủ với các ban, tương đương với các bộ. Một ví dụ cụ thể nếu như chúng ta nhìn vào thành phần ban đối ngoại của Đảng (1) thì sẽ thấy bao gồm:


Hoạt động của Bộ chính trị và Ban chấp hành Trung ương được coi là việc "nội bộ Đảng", nhưng quyết định lại liên quan đến vận mệnh cả nước


Nguyễn Quang

-Văn phòng:
- Vụ Nghiên cứu tổng hợp
- Vụ Đông Nam Á - Nam Á - Nam Thái Bình Dương
- Vụ Tây Bắc Âu - Bắc Mỹ
- Vụ SNG-Ban tích – Đông Âu
- Vụ Trung Đông - Châu Phi - Mỹ Latinh:
- Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á
- Vụ Lào - Campuchia
- Vụ Đối ngoại nhân dân
- Vụ Lễ tân - Quản trị:
- Vụ Tổ chức – Cán bộ

Hệ thống này không khác mấy với sơ đồ tổ chức trong Bộ ngoại giao. Trong phần nhiệm vụ của Ban chúng ta cũng thấy chức năng quản lý nhà nước, ví dụ như: (1)

Thẩm định hoặc tham gia thẩm định các đề án về lĩnh vực đối ngoại của các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể ở Trung ương trước khi trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Điều này cho thấy Ban đối ngoại Đảng thẩm định cả những đề án thuộc về Nhà nước và đoàn thể, hơn nữa những đề án này lại được duyệt sau cùng bởi Bộ Chính trị, Ban Bí thư thay vì Ngoại trưởng hay Thủ tướng chính phủ. Trong các ban khác chúng ta cũng thấy những cơ quan với những nhiệm vụ tương tự bao phủ mọi vấn đề quản lý kinh tế, xã hội, đối ngoại, tổ chức, ... của đất nước.

Các lãnh đạo Việt Nam và đại biểu tại quảng trường Ba Đình, trước lăng ông Hồ Chí Minh

Về phần địa phương thì mỗi tỉnh, thành lại có Đảng uỷ bao gồm các cơ quan Đảng cấp dưới tương tự, đứng đầu là Bí thư tỉnh uỷ. Trong mỗi cơ quan nhà nước như các Bộ, Vụ, Sở, Ban, Ngành, ... thậm chí trong các Doanh nghiệp Nhà nước, các Trường Đại học, các Hiệp hội cũng luôn tồn tại cấp uỷ Đảng song hành.

Có thể nói rằng tổ chức và nhiệm vụ của Đảng trùng lặp với nhiều tổ chức và nhiệm vụ của Nhà nước, Chính phủ. Với tổ chức và quyền hạn như vậy, Đảng tham gia vào nhiều quyết định quản lý Nhà nước quan trọng trong mọi lĩnh vực từ kinh tế, ngoại giao, quốc phòng đến tổ chức cán bộ Chính phủ, Quốc hội, Toà án, ...Các nghị quyết Đảng được tôn trọng hơn cả những pháp lệnh.

Trong mỗi cấp, ngành thì người có thực quyền cao nhất là Bí thư chứ không phải giám đốc. Một tỉnh quyết định phát triển ngành nào, khu công nghiệp nào thì đều phải có tiếng nói sau cùng của Bí thư tỉnh.

Một ví dụ cụ thể là việc ban hành Chỉ thị 37 về quản lý báo chí vừa qua(3): "Chỉ thị số: 37/2006/CT-TTg, ngày 29 tháng 11 năm 2006, của Thủ tướng Chính Phủ về việc thực hiện kết luận của Bộ Chính trị về một số biện pháp tăng cường lãnh đạo và quản lý báo chí". Chúng ta có thể thấy rằng việc ban hành chỉ thị này chỉ là việc "thực hiện kết luận" của Bộ Chính trị. Ở đây, Bộ Chính trị đã trực tiếp điều hành các cơ quan báo chí, Chính phủ chỉ là cơ quan thi hành mệnh lệnh.

Như vậy mặc dù có sự chồng chéo trong cùng một lĩnh vực giữa các cơ quan Đảng (Ban Tư tưởng văn hoá trung ương) và Nhà nước (Bộ Văn hoá thông tin), nhưng thực chất đã có sự phân quyền khá rõ. Cơ quan Đảng ở vị trí cao hơn, chỉ đạo về đường lối và đưa phán quyết sau cùng. Cơ quan Nhà nước là nơi soạn thảo, đệ trình (lên cơ quan Đảng) và thực hiện đường lối mà cơ quan Đảng phê duyệt.

Việc các cơ quan Đảng điều hành Nhà nước là trái với Hiến pháp và ngay cả với điều lệ Đảng.

Quyền hạn lớn, trách nhiệm nhỏ

Tuy quyền hạn của cấp uỷ Đảng rất lớn nhưng trách nhiệm lại hầu như không có bởi các cơ quan này không bị quy định bởi pháp luật Nhà nước. Quốc hội có thể chất vấn cả Thủ tướng chính phủ theo đúng chức năng, nhưng không ai có thể chất vấn Bộ chính trị bởi Bộ chính trị không phải cơ quan Nhà nước.

Hoạt động của Bộ chính trị cũng như Ban chấp hành Trung ương được coi là việc "nội bộ Đảng", nhưng quyết định của họ lại liên quan đến vận mệnh của cả nước, thực chất là việc "lãnh đạo đất nước không trong khuôn khổ của pháp luật".

Trong hàng chục ngàn vụ tham nhũng trong suốt 20 năm qua, nhiều đảng viên bị truy tố nhưng đều do họ kiêm nhiệm chức vụ nhà nước cụ thể và bị kết tội dựa trên trách nhiệm hành chính của các chức vụ nhà nước này. Một số uỷ viên TW bị truy tố khi họ kiêm nhiệm chức danh giám đốc công an Tỉnh, Bộ, thứ trưởng, ... Chưa có uỷ viên TW hay bí thư Tỉnh uỷ (mà không kiêm Chủ tịch UBND) bị xử lý trước pháp luật. Các thành viên Bộ chính trị cũng dường như nằm trong vòng bất khả xâm phạm.

Một ví dụ điển hình trong việc tham gia quản lý nhà nước mà không phải chịu trách nhiệm là vụ xử án đất đai Đồ Sơn khi Bí thư Thành uỷ Nguyễn Văn Thuận gợi ý chỉ đạo xử án (2). Thực quyền của Bí thư có thể nhận thấy qua lời thành thật của ông Phó chánh án TAND Hải Phòng Dương Văn Thành: "“Sếp” đã có ý kiến, thì mình phải tuân theo chứ"(4).

Vụ việc gây bất bình trong dư luận khiến Thủ tướng phải chỉ đạo nhưng quan chức này rồi cũng không phải chịu trách nhiệm gì về những chỉ đạo của mình cả. Không có quy đinh, luật pháp nào quy định trách nhiệm của Bí thư tỉnh uỷ trong công tác quản lý hành chính cả.

Như vậy có thể thấy rằng thực quyền của các cơ quan Đảng là rất lớn, nhưng trách nhiệm lại gần như không có. Vậy làm thế nào để đưa hoạt động lãnh đạo và quản lý của Đảng vào vòng pháp luật?

Gắn trách nhiệm và khung pháp lý vào sự lãnh đạo của người Đảng viên - mô hình nhà nước pháp quyền một đảng

Dù muốn hay không thì trong bối cảnh chính trị hiện tại, Đảng vẫn lãnh đạo toàn diện, thống nhất từ trên xuống dưới, từ trung ương đến địa phương. Do vậy mà việc người đứng đầu Đảng có xu hướng lãnh đạo những công việc chủ chốt của tỉnh, ngành mình là điều có thể hiểu được.

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo quân đội và công an

Sự song trùng Đảng, Nhà nước thực ra được phân cấp theo hướng Đảng quyết định về đường lối, Nhà nước triển khai thi hành, điều này có thể hợp lý nếu xét theo chủ trương "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý" (trong bối cảnh chính trị là chúng ta thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng). Tuy nhiên điều này lại mâu thuẫn với nguyên tắc quản lý của mô hình Nhà nước pháp quyền theo đó mọi đối tượng lãnh đạo cũng như toàn xã hội công dân đều được đặt trong khung pháp lý bình đẳng, công minh. Tình trạng hiện nay đã cho thấy khuyết tật "không xử lý được đảng viên theo pháp luật" của hệ thống chính trị.(5)

Các đề xuất cụ thể

Yêu cầu đặt ra là làm thế nào để gắn trách nhiệm và khung pháp lý vào sự lãnh đạo của người Đảng viên. Để làm được điều này đã có nhiều ý kiến và đề xuất được nêu ra: (trong bối cảnh chính trị hiện tại)

- Đề xuất thứ nhất là theo cách làm hiện nay, chỉ đạo các cấp Đảng không tham gia vào công việc quản lý Nhà nước, nhưng theo những phân tích trên thì đây là điều không thể.

- Đề xuất thứ hai là sát nhập cơ quan Đảng vào cơ quan Nhà nước, nhưng thực tế điều này lại rất khó bởi Đảng cộng sản, trên tư cách là Đảng phái chính trị có quyền tự tổ chức theo ý muốn của mình, đây là công việc nội bộ Đảng.

- Đề xuất thứ ba được coi là khả thi nhất là đưa người đứng đầu cơ quan Đảng giữ chức vụ lãnh đạo cơ quan Nhà nước tương ứng. Đề xuất này gắn chặt quyền hạn của Đảng viên với trách nhiệm Nhà nước.

Theo đề xuất này thì ở cấp cao nhất Tổng Bí thư sẽ kiêm Chủ tịch nước, các Bộ trưởng sẽ phải là uỷ viên Bộ chính trị, ... Trong các cơ quan thì Bí thư đảng uỷ kiêm luôn Giám đốc, trong các địa phương thì Bí thư Tỉnh Uỷ kiêm Chủ tịch Ủy ban Nhân dân.

Cách làm này phù hợp với quyền làm chủ tối cao của nhân dân, của Quốc hội. Khi Quốc hội bầu chọn Đảng cộng sản lãnh đạo đất nước thì Đảng tự đưa người của mình ra nhận trọng trách này, ở đây là Tổng Bí thư. Ở các cơ quan dân cử địa phương (Hội đồng nhân dân) thì cấp uỷ Đảng đưa người đứng đầu là Bí thư ra ứng cử Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân. Việc chỉ có một ứng cử viên duy nhất được hiểu là do chỉ có một đảng duy nhất trên chính trường, và hoạt động bầu cử do đó là đúng luật, không mâu thuẫn với quyền làm chủ của nhân dân.

Với cương vị Nhà nước, lãnh đạo Đảng có quyền Nhà nước trong tay và trực tiếp điều hành, không cần phải "lấn sân" nữa. Việc chỉ đạo quản lý kinh tế, xã hội của địa phương có thể được giải quyết ngay trong cơ quan Nhà nước mà không phải "lôi" về Tỉnh uỷ, do vậy mà các cơ quản Đảng cũng dần dần được giảm tải. Không cần phải cấm thì Đảng cũng tự thu gọn các Ban, các nhiệm vụ quản lý xã hội mà chỉ tập trung vào nhiệm vụ chính trị là giữ quyền lãnh đạo theo đúng chức năng của một đảng chính trị. Điều này dẫn đến tiết kiệm ngân sách nhà nước đáng kể.

Mọi quyết định quản lý, dù đứng trên vị trí của người lãnh đạo Đảng, cũng có thể bị xử lý theo pháp luật dựa theo trách nhiệm của chức danh Nhà nước mà người đó có. Ví dụ trong trường hợp trên Bí thư Thuận nếu kiêm nhiệm Chủ tịch UBND có thể bị truy tố theo tội "lợi dụng chức vụ (chủ tịch UBND)".

Biện pháp thực hiện

Mô hình nhà nước pháp quyền với một đảng chủ đạo đang được áp dụng ở Singapore và mang lại nhiều thành công. Thiết nghĩ trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, trước khi tìm được một mô hình chính trị phù hợp, có thể áp dụng mô hình này như một sự chuyển tiếp.

Thay đổi (hay cải cách) hệ thống hành chính ở Việt Nam đã được phát động từ rất lâu nhưng tiến triển rất chậm chạp. Xây dựng nhà nước pháp quyền, qua đó mọi chủ thể đều tồn tại và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật là điều mà Nhà nước đã đề cập đến.

Nhưng biện pháp thực hiện hiện nay chỉ tập trung vào việc tự giác từ phía người lãnh đạo, tức là Đảng cộng sản. Quyết tâm chính trị của bộ phận này chưa đủ mạnh vì còn nhiều ràng buộc về quyền lợi.

Do đó, để đẩy mạnh việc xây dựng nhà nước pháp quyền cần phải có sự tham gia tích cực của xã hội, của các cơ quan dân cử như Quốc hội và Hội đồng Nhân dân (HĐND). Sự phản biện chính quyền là cần thiết và tất yếu để xây dựng một chính quyền mạnh, không phải vô cớ khi mà báo Tuổi trẻ đã chọn "phản biện xã hội" là nhân vật của năm 2006.

(1) http://www.cpv.org.vn/details.asp?topic=114&subtopic=235&leader_topic=556&id=BT1610653887
(2) http://vnexpress.net/Vietnam/Phap-luat/2006/09/3B9EDF0C/
(3) http://www.vietnamjournalism.com/module.html?name=News&file=article&sid=1569
(4) http://vnexpress.net/Vietnam/Phap-luat/2006/09/3B9EE059/
(5) http://www.vnexpress.net/Vietnam/Phap-luat/2006/05/3B9EA4E1/

Bạn Nguyễn Quang, sinh năm 1980, đi từ Hà Nội, hiện đang làm bằng PhD tại Pháp. Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả. Quý vị có ý kiến tham gia tranh luận xin gửi về vietnamese@bbc.co.uk hoặc dùng hộp tiện ích bên phải.

Xây dựng nhà nước pháp quyền một đảng?

(1) (2) (3) (4) (5)

Về những phát biểu của nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An

mardi 10 juillet 2007

1- Tai hoạ của thế kỷ. Chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa phát xít và tính đặc thù của thảm hoạ

Alain Besançon

Phạm Minh Ngọc dịch

Tai hoạ của thế kỷ. Chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa phát xít và tính đặc thù của thảm hoạ - 1
Tai hoạ ...- bis
Tai hoạ của thế kỷ. Chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa phát xít và tính đặc thù của thảm hoạ - 2
Tai hoạ của thế kỷ. Chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa phát xít và tính đặc thù của thảm hoạ - 3

1 http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9383&rb=0302
2 http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9393&rb=0302
3 http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9394&rb=0302

Lời người dịch: Mười năm trước, vào năm 1997, nhân kỷ niệm 80 năm Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa tháng Mười vĩ đại, như người ta vẫn gọi ở Liên Xô và Việt Nam, ông Alain Besançon, nhà chính trị học, chuyên ngành lịch sử xã hội học và triết học, chuyên gia về lịch sử Nga và Liên Xô, giáo sư Đại học Khoa học Xã hội Paris đã cho xuất bản cuốn Tai hoạ của thế kỷ. Chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa phát xít và tính đặc thù của thảm hoạ nhằm so sánh những tội ác của chủ nghĩa Quốc xã với những tội ác của chủ nghĩa cộng sản. Năm nay sẽ là năm có ngày kỷ niệm lần thứ 90 Cách mạng tháng Mười, xin giới thiệu bản dịch ba chương đầu trong số năm chương và phần phụ lục của cuốn sách nói trên. Tất cả các ghi chú đều của người dịch.
Chương 1
Thủ tiêu về mặt thể xác

Sáu địa danh

Trước khi làm việc so sánh giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa Quốc xã, xin bạn hãy đọc tên sáu địa danh sau: Oswiecim [1] , Belzec [2] , Chelmno [3] , Majdanek [4] , Sobibor [5] , Treblinka [6] . Đây là sáu trung tâm thủ tiêu người Do Thái với mức độ “công nghiệp”. Các hành động thường diễn ra theo trật tự sau: đoàn tàu; tuyển chọn ngay trên lối ra của toa tàu; xăm mình; đưa ngay lập tức phụ nữ, trẻ em và những người không còn khả năng lao động vào lò hơi ngạt hay huyệt mộ đã đào sẵn. Trật tự đó, như tôi hiểu, không có trong chế độ cộng sản. Không thể phát âm sáu địa danh này mà không gợi ra trong tâm trí những văn bản, những lời chứng, những cuộc điều tra, những suy tư và lời cầu nguyện, nghĩa là những cố gắng nhằm truyền đạt điều không truyền đạt được.

Raul Hilberg, tác giả cuốn Việc thủ tiêu người Do Thái châu Âu (Raul Hilberg. The destruction of the European Jews. Revised and definitives. Ed., 1985), một tác phẩm chứa đầy các tư liệu được kiểm tra một cách cẩn thận, đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm nhà xuất bản và cuốn sách chỉ xuất hiện vào năm 1985.

Theo Hilberg, việc thủ tiêu người Do Thái được tiến hành theo 5 bước sau:

tước đoạt;


phát hiện và tập trung;


các cuộc hành quân tìm diệt;


lưu đày (đưa vào trại);


trung tâm giết người hàng loạt.

Nhìn vào đây, ta có thể nói rằng việc giết người trong chế độ cộng sản bao gồm 4 bước (từ 1 đến 4), tuy nhiên, do bản chất và ý đồ của chế độ, việc giết người này cũng có một vài khác biệt Trong chế độ cộng sản không có bước thứ 5 nhưng lại có thêm hai bước khác mà chủ nghĩa Quốc xã không cần, đấy là án tử hình và nạn đói.


Tước đoạt

Tước đoạt là biện pháp đầu tiên của các chính quyền cộng sản. Một trong những tư tưởng chủ đạo của chủ nghĩa cộng sản là coi cội nguồn của bất công xã hội nằm ở sự tư hữu. Do đó, phải thực hiện việc tước đoạt “phương tiện sản xuất” ngay lập tức. Đồng thời phải triệt tận gốc tư tưởng tư hữu khỏi đầu óc nhân dân và buộc ý thức của người dân phải phụ thuộc hoàn toàn vào chính quyền mới, từ đó, đưa đến kết luận là phải tước đoạt cả nhà ở, tài khoản ngân hàng, đất đai và gia súc. Con người không còn sở hữu gì, ngoại trừ một ít quần áo và đồ gia dụng.

Trong các nước cộng sản vẫn luôn luôn có những người giàu có, nhưng không thể nói rằng họ là những người hữu sản. Đấy hoặc là những người có tài sản “bất hợp pháp” hay những kẻ được ưu đãi vì lòng trung thành với chế độ hoặc vì vị trí mà họ nắm giữ. Quyền được bảo đảm bởi sở hữu tư nhân biến mất ngay lập tức, chỉ còn lại các quyết định của Đảng “được hợp pháp hoá” mà thôi. Trong giai đoạn đầu, ở nước Đức Quốc xã, chỉ người Do Thái mới bị đặt ra ngoài vòng pháp luật và bị tước đoạt. Các công dân “thượng đẳng” có quyền có sở hữu tư nhân, nhưng quyền này đã bị thu hẹp rất nhiều và theo logic của chế độ thì trước sau gì nó cũng sẽ biến mất hoàn toàn.


Phát hiện và tập trung

Chế độ cộng sản và chế độ Quốc xã tiến hành theo dõi và phát hiện bằng những cách thức khác nhau. Trong chế độ Quốc xã, mỗi người Do Thái được coi là một ổ dịch. Cần phải tìm bằng được họ, như người ta tìm sâu bọ, dù họ có náu vào bất cứ xó xỉnh nào thì cũng phải tìm cho ra, chế độ chi tiền và cử cán bộ để làm công việc này. Chế độ cộng sản đứng trước một bài toán khó khăn hơn rất nhiều, kẻ thù của nó không có hình thù xác định nào. Nhiệm vụ của nó là tiêu diệt “kẻ thù của chủ nghĩa xã hội”, “kẻ thù của nhân dân”. Trước hết, phải vô hiệu hoá kẻ thù, một kẻ thù đã được xác định từ trước: đấy là những người giàu có, những nhà tư sản, địa chủ, phú nông… Sau đó đến lượt những người có tư tưởng thù địch, những người “dao động” hay tỏ ra bàng quan. Những người như thế có thể nằm ngay trong giai cấp vô sản, nông dân, trung nông, dân nghèo và trí thức lao động. Họ có mặt cả trong đảng, trong quân đội và các cơ quan nhà nước.

Kẻ thù bí ẩn không có những đường nét đặc thù có thể nhìn thấy bằng mắt thường, họ không có những đặc điểm về thể chất như bao qui đầu bị cắt chẳng hạn, họ cũng không thuộc về một cộng đồng hay bộ lạc nào. Cần phải tìm cho ra, cần phải buộc họ thú nhận đã có những ý đồ đen tối, những ý định phá hoại và sau đó thì “thủ tiêu”. Đây là công việc không bao giờ ngưng và đòi hỏi rất nhiều công sức. Đấy là lý do vì sao bộ máy đàn áp của các chế độ cộng sản lại to lớn và đông người hơn bộ máy cảnh sát của chế độ Quốc xã; nhiệm vụ của bộ máy Quốc xã chỉ là tìm và đưa người Do Thái đến nơi dành riêng cho họ mà thôi. Gestapo chỉ cần mấy ngàn người, nhưng KGB có gần 500 ngàn nhân viên. Stasi [7] của Cộng hoà Dân chủ Đức có nhiều nhân viên hơn Gestapo của toàn thể nước Đức.

Theo số liệu của Raul Hilberg thì chỉ cần 2 năm (1941-1942), nhiệm vụ “giải quyết triệt để vấn đề Do Thái” đã thực hiện được khoảng 60%. Nhiệm vụ của các cơ quan an ninh Liên Xô thì không có hồi kết. Họ đã thực hiện việc phân loại, điều tra, theo dõi từ tháng 11 năm 1917 cho đến tận ngày tàn của chế độ.


Các cuộc hành quân tìm diệt

Theo số liệu của Raul Hilberg, khoảng một phần tư (có thể còn hơn) người Do Thái bị giết bởi các đơn vị chuyên trách gọi là Einsatzgruppe [8] , những đơn vị này thường hành quân theo các đơn vị tác chiến và dùng súng đại bác để hành quyết người Do Thái “ngay tại trận”. Các đơn vị quân đội đôi khi cũng giết người theo cách đó.

Các cuộc hành quân tìm diệt cũng thường được các chế độ cộng sản thực hiện. Các vụ giết người hàng loạt cũng đã xảy ra giữa thanh thiên bạch nhật sau khi Hồng quân chiếm được Ukraine, Kavkaz, Sibiri, Trung Á. Đã có những vụ giết người hàng loạt và có hệ thống trong thời gian diễn ra những cuộc chiến tranh nông dân, bắt đầu vào năm 1919 và kéo dài cho đến khi có chính sách kinh tế mới (NEP) vào năm 1921. Để chống lại những người nông dân từng bị cộng sản bóc lột và bỏ đói, để chống lại những người Cossack (tộc người này gần như bị tiêu diệt hoàn toàn) Hồng quân đã sử dụng cả các vũ khí hạng nặng như xe tăng và hơi ngạt. Trong tác phẩm Chekist, Vladimir Zazubrin (1923) đã mô tả các chiến dịch của Ủy ban khẩn cấp địa phương: người ta dùng xe tải chở người đi hành quyết, những vụ hành quyết hàng loạt, bắn vào gáy trong tầng hầm, hàng đoàn xe tải sau đó chở xác chết ra. Việc giết người giữa thanh thiên bạch nhật tái xuất hiện trong giai đoạn tập thể hoá, còn trong vụ “thanh trừng vĩ đại” thì hơi ngạt lại được sử dụng. Tại Trung Quốc, việc giết người giữa thanh thiên bạch nhật được tiến hành trong hai năm đầu sau khi những người cộng sản giành được chính quyền và sau đó, tái xuất hiện trong “Đại nhảy vọt” và trong giai đoạn Cách mạng Văn hoá. Những vụ giết người tương tự đã xảy ra ở Việt Nam, ở Triều Tiên và Etiopia.

Ở Campuchia, rất nhiều vụ giết người hàng loạt đã diễn ra. Vì không có vũ khí hiện đại, người ta có thể huy động từ dao, cuốc đến xẻng, gậy gộc để thực hiện việc giết người. Những tên đao phủ thường là trẻ con đã làm quen với kỹ thuật giết người của chế độ. Khmer Đỏ đã giáo dục chúng như thế đấy. Các nấm mồ tập thể đang dần dần được phát hiện.


Trại cải tạo và lưu đày

Hệ thống các trại cải tạo được phát minh và phát triển trong chế độ Xô viết. Quốc xã chỉ bắt chước mà thôi. Từ “lager” (trại) được người Nga và người Đức phát âm gần giống nhau. Các trại lao động đầu tiên được xây dựng ở Nga vào tháng 6 năm 1918, khoảng nửa năm sau khi Lenin và Đảng của ông ta cướp được chính quyền.

Hệ thống trại cải tạo, lưu đày của nhà nước Xô viết vừa lớn hơn vừa phức tạp hơn nhiều lần hệ thống của nhà nước Quốc xã. Tại Đức, tuy có tồn tại sự khác biệt giữa những trại với tỉ lệ tù nhân tử vong thấp (Dachau [9] ) và trại với tỉ lệ tử vong cao (Dora) gần với những vụ giết người hàng loạt nhưng đấy là sự khác biệt không được chính thức hoá. Còn ở Liên Xô thì phổ phân biệt rộng hơn và hình thức rõ ràng hơn nhiều. Có ba hình thức chủ yếu sau đây.

Thứ nhất là việc lưu đày cả một dân tộc: đấy là người Tartar ở Crưm, người Chechen, người Đức vùng sông Volga… hay những nhóm xã hội nhất định: 10 triệu địa chủ. Tỉ lệ tử vong cao nhất xảy ra trên các đoàn tàu hoả trong những điều kiện không khác gì các đoàn xe Quốc xã đưa người Do Thái vào trại tập trung, sự khác biệt duy nhất là ở Liên Xô người ta phải đi xa hơn; năm lưu đày đầu tiên cũng có rất nhiều người chết, người ta đưa những người bị ép buộc phải di cư đến các thảo nguyên Trung Á, những vùng đầm lầy ở Sibiri mà không được trang bị quần áo ấm và dụng cụ lao động cũng như hạt giống gì cả. Tỉ lệ tử vong được đánh giá là khoảng 50%. Việc lưu đày toàn bộ những dân tộc chỉ xảy ra ở Liên Xô, không thấy tài liệu nào nói đến hiện tượng như thế ở các nước cộng sản khác, có thể vì những nước này không có những vùng đất rộng lớn như Liên Xô, mà cũng có thể sự đồng nhất sắc tộc tại những nước đó không tạo ra trở ngại cho các dự án của chủ nghĩa cộng sản. Có thể so sánh việc trục xuất bằng vũ lực người Đức khỏi Ba Lan và Tiệp Khắc sau Thế chiến thứ hai với việc lưu đày ở Liên Xô.

Thứ hai là trại lao động cải tạo. GULag [10] trở thành một cấu trúc hành chính cực kỳ to lớn và định hình trong những năm 30 của thế kỷ trước. Nó có khả năng quản lý một lực lượng lao động lớn (một số nhà nghiên cứu cho là chiếm 11% lực lượng lao động cả nước). Đã có nhiều tác phẩm viết về hiện tượng này, nó cũng chẳng khác gì những trại lao động dưới chế độ Quốc xã. Dậy, kiểm tra, đội lao động, định mức và khẩu phần ăn tương ứng với việc hoàn thành định mức, đói, đánh đập, tra tấn, tử hình - một ngày của Shalimov ở Kolym cũng chẳng khác gì một ngày của Levi ở Oswiecim. Chi tiết cụ thể cũng giống nhau: ăn cắp trở thành phổ biến, thói ích kỷ, suy kiệt về mặt thể xác, đạo đức suy thoái; trại, giường ngủ, giấc ngủ và giấc mơ cũng giống nhau.

Có một vài khác biệt trong các tổ chức và điều kiện khí hậu. Ở Oswiecim, người ta dùng chuông để đánh thức, còn ở Kolym thì gõ vào thanh ray đường sắt treo trên cây. Ở Liên Xô, người chết không được thiêu. Mùa đông, xác chết được chất thành đống, ngón chân cái mỗi người được gắn một cái thẻ và đợi cho đến khi trời ấm, có thể đào được huyệt, mới được đem đi chôn. Trong rất nhiều trại lao động trải rộng khắp vùng đông-bắc Sibiri còn một điều khủng khiếp nữa, đấy là cái lạnh kinh người cộng với một thiên nhiên buồn thảm trải dài đến vô tận, thêm vào đó, các trại lại cách biệt hẳn với những khu dân cư. Số người chết có nơi đến 30-40% một năm. Với thời gian giam giữ kéo dài cũng như việc chế độ Xô viết tồn tại trong một thời gian khá lâu thì sự đày ải con người như thế cũng gần đồng nghĩa với nạn diệt chủng, tuy nhiên, ở đây không phải ai cũng bị chết như ở Treblina, nơi chẳng ai có thể hi vọng được sống sót.

Loại thứ ba: xung quanh GULag còn những vùng lao động khổ sai và những khu vực mà người dân bị sống dưới sự kiểm soát của chính quyền. Sức lao động của họ được sử dụng trên các công trường “xây dựng vĩ đại” như đào kênh, đắp đập và trên những công trình quân sự bí mật. Nói tóm lại, trong chế độ cộng sản, chẳng có ai được tự do. Vì vậy, khi trả lời câu hỏi ở Liên Xô có bao nhiêu tù nhân chính trị, ông Vladimir Bukovsky đã nói nửa đùa nửa thật: “Có 270 triệu người.”

Trại cải tạo có mặt trong tất cả các nước cộng sản. Ở Rumania, đã có 200 ngàn người chết trên công trường xây dựng kênh đảo Dunaj-Hắc Hải, nghĩa là toàn bộ giới tinh hoa của chế độ cũ đã bi giết. Tin tức về trại cải tạo ở Việt Nam và Trung Quốc (gọi là trại lao cải) không có nhiều. Một cựu tù nhân Liên Xô đã kể cho tôi nghe như sau: Một tù nhân “lao cải” trốn được sang Sibiri và bị bắt vào nhà tù, anh ta coi nhà tù Liên Xô là thiên đường! Trên thực tế, GULag có thời hạn còn ở Trung Quốc thì không có thời hạn nào, tất cả phụ thuộc vào việc “cải tạo tư tưởng” của anh ta (trại cải tạo được coi là “trường học”). Ở Liên Xô, buổi tối tù nhân được đưa vào lán, còn ở Trung Quốc anh ta bị xích ngay tại chỗ. Chỉ một ít thông tin về trải cải tạo ở Bắc Triều Tiên đã đủ làm người ta dựng tóc gáy. Thế mà các trại tù đó vẫn đang hoạt động hết công suất!


Án tử hình

Hai hình thức giết người nữa cũng thường xuyên được chế độ cộng sản sử dụng, nhưng chế độ Quốc xã ít khi dùng.

Thứ nhất là giết người đã có án. Chế độ phát xít không áp dụng hình thức này với người Do Thái: theo quan điểm của chủ nghĩa Quốc xã, người Do Thái không phải là người vì vậy mà không có “công lý” gì hết. Án tử hình chỉ áp dụng với những người đối lập, những người kháng chiến và du kích quân sau khi các sự kiện đã được điều tra một cách cụ thể.

Án tử hình trong chế độ cộng sản (bắn hàng loạt, bắn vào gáy, treo cổ) về nguyên tắc phải là kết quả điều tra của toà án để cho “nhân dân” hay những người đại diện của nhân dân (cánh tay của đảng) có thể nhận diện và lên án kẻ thù bí mật hoặc công khai. Vì vậy, thời kỳ đầu, án tử hình được thực hiện mà không cần toà án, sau này, cùng với việc hoàn thiện bộ máy (công tố viện), các bản án thường được tuyên tại toà. Trong giai đoạn bắt đầu từ năm 1934, thường được gọi là “vụ thanh trừng vĩ đại”, người ta tìm mọi cách để buộc tội nhân thú nhận, tra tấn được coi là biện pháp đơn giản nhất và được áp dụng khắp nơi.

Giai đoạn này còn có một đặc điểm là đa số người bị bắt - việc bắt người thường được thực hiện theo kế hoạch đưa từ trên xuống - bị gán cho những tội lỗi mà họ không hề phạm: đấy thường là những người thụ động không có khả năng chống đối hoặc là những người cộng sản chân thành, những người tuyệt đối tin tưởng và thần phục Stalin. Điều đó đã gây ra một nỗi kinh hoàng đối với tất cả mọi người dân. Nó cũng tạo cho người ta cảm giác như vừa trải qua một cơn ác mộng vì không thể nào hiểu nổi bản chất của việc giết chóc này. Tất cả mọi người đều chờ đến lượt mình vì họ đã thấy những người hàng xóm tự nhiên biến mất; hằng đêm, người ta để sẵn gói quần áo trên đầu giường và lắng nghe bước chân trên cầu thang. Tất cả các nước cộng sản, ở châu Âu và đặc biệt là ở châu Á, đã trải qua những giai đoạn như thế. Có đủ cơ sở để coi Hitler là kẻ khởi xướng “vụ đàn áp lớn”. Trong cái đêm gọi là “đêm của những con dao dài” [11] , một cuộc thanh trừng chớp nhoáng do Đảng xã hội dân tộc tiến hành đã giết chết khoảng 800 người. Stalin đã nhân con số này lên hơn một ngàn lần.


Nạn đói

Nạn đói có mặt trong toàn bộ lịch sử của các chế độ cộng sản. Chúng ta đã và đang thấy nạn đói ở Liên Xô, Trung Quốc, Etiopia và Bắc Triều Tiên.

Nạn đói luôn luôn là hậu quả của chính sách kiểm soát toàn bộ thần dân của chủ nghĩa cộng sản. Cộng sản không cho phép người nông dân tự tổ chức lấy đời sống của mình. Trong khi bóc lột người nông dân một cách thậm tệ, cộng sản lại buộc họ vào khuôn khổ của các nông trang và công xã và vì vậy nhất định sẽ tạo ra những cuộc khủng hoảng về lương thực. Không thể nói rằng chính quyền trực tiếp gây ra nạn đói, nhưng chính quyền cộng sản sẵn sàng trả giá, nghĩa là sẵn sàng để người dân chết đói vì những mục đích chính trị và tư tưởng của họ. Thí dụ, ở Kazakhstan, một nửa dân số đã chết vì đói.

Nhưng người ta cũng đã biết những trường hợp khi mà nạn đói đã được hoạch định và tổ chức một cách chặt chẽ. Chuyện đó đã xảy ra ở Ukraine trong những năm 1932-1933. Mục đích không phải là tiêu diệt sự kháng cự của tầng lớp nông dân vì công cuộc tập thể hoá đã làm xong việc đó rồi, mục đích của nó là tiêu diệt chính dân tộc Ukraine. Ta có thể dùng từ “diệt chủng” cho trường hợp này.

Dù được coi là phương tiện hay mục đích thì nạn đói vẫn là phương pháp giết người hữu hiệu nhất của chủ nghĩa cộng sản. Hơn một nửa nạn nhân ở Liên Xô và có thể ba phần tư số nạn nhân ở Trung Quốc là những người đã chết vì đói.


Có tên và không tên

Người ta biết chính xác số người Do Thái bị chế độ Quốc xã giết hại, những số liệu đó lại được chính xác hoá bằng những cuộc điều tra và trí nhớ trung thực của người Do Thái. Có những cuốn cẩm nang ghi rõ số người và ngày khởi hành của từng đoàn tàu. Tên tuổi từng người được kiểm tra một cách kỹ lưỡng và ghi chép một cách cẩn thận. Còn nói về số người bị chế độ cộng sản giết hại thì các thống kê khác nhau đưa ra những con số khác nhau, sự cách biệt lên đến hàng chục triệu người. Cuốn sách đen về chủ nghĩa cộng sản cho rằng có từ 85 đến trên 100 triệu người đã bị các chế độ cộng sản giết hại.

Việc một số người bị giết như những con vật nhưng lại được tưởng nhớ như những con người, trong khi một số người khác có thể đã chết một cách xứng đáng hơn (dù sao họ cũng được coi là “kẻ thù”) lại bị lãng quên, không chỉ là do trí nhớ ở nơi này thì trung thực mà ở nơi khác thì không. Nguyên nhân là các cuộc điều tra không thể được thực hiện hay bị cấm thực hiện trong những vùng đất đã từng hoặc hiện nay vẫn còn nằm dưới sự cai trị của chế độ cộng sản. Một nguyên nhân nữa là người ta đã quá chú ý đến chủ nghĩa Quốc xã và tất cả sẵn sàng quên chủ nghĩa cộng sản. Cuối cùng, đấy là do bản chất của hai chế độ này. Chế độ Quốc xã hành động trong những tiêu chuẩn xác định, thay đổi nhau theo từng giai đoạn (người tàn tật, người Do Thái, người Digan…) còn chủ nghĩa cộng sản thì áp dụng các tiêu chí không xác định, các nạn nhân bị bắt một cách tình cờ, tất cả thần dân của nó đều có thể bị tuyên bố là kẻ thù của chế độ.

*
Biện pháp giết người không phải là tiêu chí đánh giá. Không thể coi cái chết này là khủng khiếp hơn cái chết kia: bất cứ vụ giết người nào cũng đều kinh khủng và đáng lên án cả. Không ai biết một đứa trẻ bị chết ngạt vì hơi “Siklop-B” hay chết vì đói ở Ukraine cảm thấy thế nào. Người ta bị giết mà không qua bất cứ quá trình xét xử nào, vì vậy, có thể nói rằng: nạn nhân của cả hai chế độ đều chết một cách oan ức, họ đều là những người vô tội. Khi có hệ thống xử án thì ta có thể nói rằng biện pháp tử hình này vinh dự hơn biện pháp kia, thí dụ chặt đầu vinh dự hơn treo cổ. Nhưng việc giết người trong thế kỷ chúng ta hoàn toàn xa lạ với khái niệm “danh dự”, vì vậy, phân loại những nỗi đau là việc làm bất khả thi và bất cận nhân tình.

Bản tiếng Việt © 2007 talawas
--------------------------------------------------------------------------------
[1]Oswiecim (tiếng Đức là Auschwitz) là một thành phố ở miền nam Ba Lan. Năm 1940, Đức Quốc xã đã lập một trại tập trung ở gần thành phố này và từ đó đến năm 1945, hơn bốn triệu người đã bị giết hại trong trại tập trung này. Oswiecim được Hồng quân giải phóng ngày 27.1.1945, hiện ở đây có Viện Bảo tàng tội ác phát xít.
[2]Belzec nắm trên con đường sắt nối thành phố Lublin của Ba Lan và thành phố Lvov của Ukraine. Tháng 11 năm 1941, phát xít Đức đã cho xây một trại tập trung. Trại này chỉ hoạt động từ tháng 2 năm 1942 đến tháng 1 năm 1943 nhưng đã có 600.000 người Do Thái bị giết hại tại đây.
[3]Trại tập trung được xây dựng ở một làng cùng tên tại miền bắc Ba Lan. Ở đây, lần đầu tiên phát xít Đức sử dụng hơi ngạt để giết hại người Do Thái. Có khoảng 152.000 người Do Thái bị sát hại tại trại tập trung này.
[4]Trại tập trung của Đức Quốc xã ở gần thành phố Lublin (Ba Lan). Đã có khoảng 1,5 triệu người bị giết hại tại đây.
[5]Sobibor, trại tập trung ở gần thành phố Lublin (Ba Lan). Có khoảng 250.000 người bị giết tại đây.
[6]Treblinka, trại tập trung ở đông bắc thủ đô Warszawa của Ba Lan. Người ta cho rằng có khoảng 700 ngàn người đến 900 ngàn người Do Thái đã bị tàn sát tại đây.
[7]Stasi là tên viết tắt của Bộ An ninh Quốc gia (tiếng Đức: Ministerium für Staatssicherheit) của nước Cộng hoà Dân chủ Đức (Đông Đức) được thành lập năm 1950.
[8]Einsatzgruppe là các đơn vị chuyên giết hại những đối thủ chính trị, những người cộng sản và các sắc dân hạ đẳng (Do Thái, Di-gan...) trong các vùng bị Quốc xã chiếm đóng.
[9]Dachau là một trong những trại tập trung đầu tiên được xây dựng trên đất Đức.
[10]GULag, tên viết tắt của Tổng cục quản lý các trại lao động cải tạo, được thành lập tháng 11 năm 1930, bị giải tán vào ngày 25 tháng 1 năm 1960. Đa số các trại lao động cải tạo đều nằm ở các vùng xa xôi hẻo lánh đông bắc Liên Xô như Bereglag ở Kolym, Gorlag ở gần Norilsk, ở Kazakhstan thì có Karlag, có cả những trại nằm ở nước ngoài nhưng đặt dưới sự quản lý trực tiếp của GULag.
[11]“Đêm của những con dao dài’’ (Nacht der langen Messer) là vụ Hitler hạ lệnh giết hại ban lãnh đạo lực lượng SA được thực hiện từ ngày 30 tháng 6 đến ngày 2 tháng 7 năm 1934.


Nguồn: Dịch từ bản tiếng Nga, МИК” – “Русская мысль; Москва-Париж, 2000
http://www.nationalism.org/library/science/ideology/besancon/besancon-le-malheur-du-siecle.htm

http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9383&rb=0302
2- Tai hoạ của thế kỷ. Chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa phát xít và tính đặc thù của thảm hoạ


Alain Besançon
Phạm Minh Ngọc dịch
1 http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9383&rb=0302
2
3 http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9394&rb=0302

Chương II
Phá hoại về mặt đạo đức

Bên cạnh việc thủ tiêu về mặt thể xác, một khía cạnh rõ ràng của thảm hoạ, một lĩnh vực thu hút nhiều công trình nghiên cứu và có nhiều tài liệu thống kê thì còn một lĩnh vực nữa, không nhìn thấy được, nơi sự phá hoại có thể còn lớn hơn nhiều vì nó động chạm đến số lượng người đông hơn và đòi hỏi nhiều thời gian khắc phục hơn. Đấy là sự phá hoại trái tim và khối óc.

Sự phi lý

Có thể lập và người ta đã lập phả hệ của hai hệ tư tưởng đã từng làm điên đầu một phần nhân loại trong thế kỷ vừa qua. Nhưng khi làm như thế, ta có nguy cơ tin rằng những tư tưởng to lớn và sâu sắc vẫn còn tồn tại trong hai hệ tư tưởng đó, tin rằng chúng đã sử dụng khía cạnh nào đó của những tư tưởng sâu sắc nói trên trong việc tạo lập ra hình hài của chính mình. Chúng không xứng đáng được tôn trọng và được đánh giá cao đến như thế. Làm như thế là chúng ta đã thuận theo yêu sách được liệt vào phả hệ của chúng. Chủ nghĩa Marx-Lenin coi mình là hậu duệ của những truyền thống xuất phát từ Heraclitus và Democritus. Nó chứng minh rằng nó có cội nguồn từ Lucretius, từ thời Khai sáng, từ Hegel và toàn bộ tiến trình phát triển của khoa học. Chủ nghĩa Quốc xã tự coi mình có nguồn gốc từ truyền thống bi kịch Hy Lạp, từ Herder, Novalis, từ Hegel, từ Nietzsche và dĩ nhiên là đã biện hộ bằng toàn bộ sự phát triển của khoa học từ thời Darwin. Không được tin chúng. Ảo tưởng như thế có thể tạo ra một mối nguy nữa, tức là ta có thể bôi nhọ thanh danh của những người mà các học thuyết này coi là cội nguồn của chúng: chúng ta có thể lên án cả Hegel và bất cứ triết gia hay khoa học gia nào được chúng nhắc tới vì họ đã tạo ra những kẻ thừa kế như thế.

Ảo tưởng đó sẽ tan biến ngay khi ta xem xét cơ chế tư duy của các lãnh tụ cộng sản và Quốc xã. Cơ chế tư duy của họ bị điều khiển bởi một hệ thống giải thích thế giới cực kỳ đơn giản: đấy là cuộc đấu tranh một mất một còn giữa các giai cấp hay các chủng tộc. Định nghĩa giai cấp hay chủng tộc lại chỉ có ý nghĩa ở bên trong và thông qua hệ thống này, vì vậy, mọi biểu hiện khách quan trong định nghĩa về giai cấp hay chủng tộc đều không có giá trị. Trong đầu óc những đồ đệ của các học thuyết nói trên, các khái niệm điên rồ như thế đủ sức lý giải bản chất của cuộc đấu tranh, biện hộ cho nó, đủ sức hướng dẫn hoạt động của kẻ thù cũng như đồng minh. Có thể sử dụng bất kỳ thủ đoạn nham hiểm và xảo trá nào miễn là đạt được mục đích và nếu nhìn vào các sự kiện, có thể thấy chủ nghĩa cộng sản đã có những kịch sĩ tài năng hơn Hitler nhiều như Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh. Đây là những hệ thống phi lý, còn mục đích của chúng là bất khả thi.

Cốt cán của đảng phải là người trung thành tuyệt đối. Chỉ thị của “thượng cấp” có thể xoay chuyển toàn bộ đầu óc và ngũ quan. Kết quả là ngôn ngữ cũng bị biến dạng: nó không còn là phương tiện trao đổi mà là để che giấu mối liên hệ giữa hệ thống và hiện thực. Ngôn ngữ trở thành ảo thuật gia: buộc hiện thực khuất phục thế giới quan của hệ thống. Đấy là ngôn ngữ của lễ nghi, mỗi lời đều chứng tỏ rằng kẻ nói là người của hệ thống và người nghe cũng phải tham gia vào hệ thống này. Những câu nói có giá trị nhất của nó chính là những lời đe doạ, những biểu hiện của sức mạnh.

Khi đã bị hệ tư tưởng như thế khống chế thì trí tuệ không còn. Chủ nghĩa Quốc xã đã lôi kéo được một vài nhà tư tưởng vĩ đại: Heidegger, Carl Schmitt. Nhưng đấy là họ qui chiếu các tư tưởng xa lạ với chủ nghĩa Quốc xã của mình lên chủ nghĩa Quốc xã: thù địch với hiện đại hoá, thù địch với dân chủ, chủ nghĩa dân tộc mang màu sắc siêu hình. Dường như chủ nghĩa Quốc xã đã tiếp thu tất cả những cái đó, đã tiếp thu mà bỏ qua những điều tạo nên giá trị trong đời sống tinh thần của triết gia, đã bỏ qua tư tưởng, chiều sâu và siêu hình học của họ. Các nhà triết học này cũng ngộ nhận về phả hệ.

Chủ nghĩa Marx-Lenin chỉ tuyển mộ được những đầu óc loại hai, thí dụ như Lukács, nhưng những người này đã mau chóng đánh mất tài năng ngay sau đó. Các đảng cộng sản có thể huênh hoang vì có những người nổi tiếng như Aragon, Bréton, Picasso, Langevin, Neruda đứng cùng đội ngũ, nhưng họ lại tìm mọi cách để cho những người này đứng ở ngoài lề, chỉ cho họ tham gia khi cần, khi hoàn cảnh đòi hỏi. Mặc dù vậy, mặc dù đảng tính chỉ là chiếu lệ, hội hoạ của Picasso, thi ca của Neruda và Aragon cũng đã bị ảnh hưởng. Các nhà tư tưởng lớn ngả về một hệ tư tưởng nào đó là do sự say mê nhất thời, bản chất của lòng say mê nằm ngoài mọi hệ tư tưởng. Nhưng khi tiến gần vào trung tâm thì lòng nhiệt tình bỗng giảm hẳn, thường chỉ còn lại sự bực bội mà thôi.

Trong hàng ngũ cộng sản, một số lãnh tụ như Stalin và Mao Trạch Đông đã tự vạch ra sơ đồ nguyên lý chủ yếu của hệ tư tưởng này. Sơ đồ này có thể được mô tả trên vài trang giấy và chứa đựng toàn bộ học thuyết: không tìm đâu ra những kiến giải sâu sắc hơn, mặc dù những cuốn sách giáo khoa này đôi khi được gọi là “giáo trình cơ sở” để tạo ấn tượng rằng có những kiến giải khác khoa học hơn; nhưng những tác phẩm như thế, nếu có, cũng chỉ là kể lại một cách dài dòng “giáo trình” mà thôi. Những cuốn sách như thế lại là đối tượng “nghiên cứu”, nghĩa là các thần dân của họ phải tụng, phải nhại lại như vẹt những điều được ghi trong đó. Chủ nghĩa Quốc xã không có những cuốn sách giáo khoa ngắn gọn như thế: phải tuân thủ tuyệt đối tư tưởng của lãnh tụ, mà tư tưởng của lãnh tụ thì lại có tính chất tiên tri và đầy cảm hứng. Nếu phân tích thì ta sẽ thấy đấy chỉ là sự pha trộn một cách nghèo nàn chủ nghĩa Darwin đem áp dụng vào xã hội loài người, di truyền học, tư tưởng của Nietzsche mang màu sắc bài Thiên Chúa giáo, tư tưởng phục thù và bài Do Thái bệnh hoạn mà thôi.

Môn đệ của cộng sản cũng như của Quốc xã đều cần được khám bệnh tâm thần. Họ là những người kín đáo, sống tách rời thực tế, họ có thể nhắc đi nhắc lại suốt ngày những lý lẽ cũ rích chẳng khác gì những kẻ tâm thần nhưng lại tin rằng mình là người hoàn toàn tỉnh táo. Đấy là lý do vì sao các bác sĩ tâm thần lại so sánh họ với bệnh hoang tưởng mãn tính, với bệnh tâm thần phân liệt. Nhưng khi nghiên cứu kỹ thì ta thấy cách so sánh như thế chỉ mang tính ẩn dụ. Biểu hiện rõ nhất cho thấy đấy là cơn điên nhân tạo thể hiện ở chỗ có thể chữa được: khi áp lực chấm dứt và khi hoàn cảnh thay đổi thì người ta lập tức khỏi bệnh, cứ y như họ vừa thoát khỏi cơn mê vậy. Nhưng đấy là mê trong lúc thức, mê mà không cản trở hành động, mê mà vẫn giữ được vẻ mạch lạc, hợp lý. Khi thoát ra ngoài cái môi trường đã bị thương tổn đó, cái môi trường vốn là thượng tầng của lý trí của một người bình thường, cái môi trường tạo ra tôn giáo và triết học, hay nói theo Kant, là tạo ra các “ý tưởng điều khiển lý trí” thì các chức năng lý tính dường như không bị thương tổn nhưng đã bị phân hoá và nô dịch đến mức hoang tưởng hoàn toàn, khi tỉnh ngộ người ta thấy đầu óc trống rỗng, phải học lại từ đầu tất cả mọi thứ. Nước Đức, hàng thế kỷ được coi là Athen của châu Âu, đã trở thành ngây độn sau 12 năm cầm quyền của chủ nghĩa Quốc xã. Đấy là chưa nói đến nước Nga, một nước đã trải qua nền giáo dục phi lý một cách có hệ thống trong hơn 70 năm trời, một nước mà nền tảng tinh thần chưa phát triển và dễ bị tổn thương hơn nước Đức!

Những chứng bệnh tinh thần nhân tạo đó lại có khả năng truyền nhiễm. Đã có người so sánh chúng với việc bùng phát dịch đậu mùa hay cảm cúm. Về mặt hình thức thì quá trình phát xít hoá nước Đức vào năm 1933 và Cách mạng Văn hoá ở Trung Quốc đã phát triển giống như một căn bệnh truyền nhiễm. Trong khi chờ đợi có những kiến thức sâu sắc hơn về những bệnh dịch tâm thần này, chúng ta hãy coi đây là sự so sánh có giá trị tượng trưng.

Sự phi lý vừa là nền tảng vừa là điều kiện của sự phá hoại về mặt đạo đức. Sự rối loạn nhận thức chỉ có thể xảy ra khi quan niệm về thế giới, thái độ đối với hiện thực bị phá hoại một cách cố ý. Tôi không thảo luận ở đây vấn đề có thể coi sự mê muội đó là tình huống giảm khinh hay phải coi nó là một phần không tách rời của cái ác. Câu trả lời, nếu có, cũng không làm thay đổi đánh giá của chúng ta.


Sự xuyên tạc tính thiện của chủ nghĩa Quốc xã

Khi xem xét một cách cẩn thận toàn bộ các hình thức đày ải mà một dân tộc phải chịu đựng trong sáu cơ sở giết người của chủ nghĩa Quốc xã thì ngôn từ không còn giá trị, các quan niệm biến mất, trí tưởng tượng cũng không còn hoạt động, chỉ còn trí nhớ là có giá trị. Chúng ta như đã thoát ra ngoài thế giới loài người. Và ý nghĩ về quỷ dữ cứ bám mãi vào tâm trí.

Quỷ dữ ở đây chính là những hành động đó được thực hiện nhân danh điều thiện, nhân danh đức hạnh. Phương tiện phá hoại đạo đức chính là sự xuyên tạc tính thiện, cho nên thật khó nói tội nhân có thể nhận thức được rằng họ có phạm tội hay không.

Trong thời kỳ chiến tranh, Himmler đã đăng đàn nhiều lần trước các sĩ quan và hàng ngũ lãnh đạo SS (Heinrich Himmler, Discours secrets, Gallimard, Paris, 1978). Tất cả đều mang giọng giáo huấn đạo đức.

Xin dẫn ra ở đây một đoạn, nó còn cao hơn cả nhu cầu lúc đó, cao hơn nhu cầu của chính đế chế, có thể nói mang tính toàn năng: “Tất cả những điều chúng ta làm đều phải được biện hộ trước tổ tiên của chúng ta. Nếu chúng ta không có mối liên hệ đạo đức như thế, một mối liên hệ sâu sắc nhất và tuyệt vời nhất vì là tự nhiên nhất, thì chúng ta không thể chiến thắng Thiên Chúa giáo và xây dựng được đế chế Đức, một đế chế sẽ là vinh hạnh cho toàn bộ trái đất của chúng ta. Trong suốt hàng ngàn năm qua, nhiệm vụ của chủng tộc da trắng là làm chủ trái đất và luôn luôn tạo ra hạnh phúc và văn minh trên trái đất này” (ngày 9 tháng 6 năm 1942).

Theo chủ nghĩa Quốc xã, tính thiện là khôi phục lại trật tự tự nhiên đã bị lịch sử đảo lộn. Đẳng cấp tự nhiên của các chủng tộc đã bị các hiện tượng như Thiên Chúa giáo (“bệnh dịch hạch này là căn bệnh nặng nhất mà chúng ta gặp trong suốt tiến trình lịch sử”), dân chủ, quyền lực của đồng tiền, chủ nghĩa Bolsevik, người Do Thái phá hoại. Đế chế Đức là đỉnh cao của trật tự tự nhiên nhưng trong đó vẫn có chỗ dành cho các dân tộc Đức khác như người Scandinavia, Hà Lan, Flammand. Đế chế Anh, “một đế chế quốc tế do người da trắng thành lập”, sẽ được giữ nguyên. Người Pháp, người Ý ở bậc thấp hơn. Người Slav còn ở bậc thấp nữa, họ sẽ biến thành nô lệ và số người sẽ giảm bớt: Himmler cảnh báo sẽ “giảm” 30 triệu người. Trật tự tự nhiên cũng được phục hồi ngay trong lòng xã hội, trong đó những người tốt nhất, cứng rắn nhất, trong sạch nhất, cao quý nhất sẽ giữ thế thượng phong: tầng lớp tinh hoa Vaffen-SS là thí dụ điển hình. Khi Himmler nói như thế thì trong các bệnh viện và nhà thương điên, những bệnh nhân không còn khả năng hồi phục, những người tàn tật, người tâm thần thuộc “chủng tộc” Đức đã bị đem thủ tiêu một cách bí mật.

Tất cả những điều đó, Himmler nói tiếp, chỉ có thể đạt được bằng một cuộc chiến đấu cực kỳ khốc liệt. Trong các bài diễn văn của mình, ông ta luôn luôn kêu gọi lòng dũng cảm, kêu gọi những chiến tích siêu nhân, tinh thần trách nhiệm cao trước đế chế, đặc biệt khi nói về việc thực thi các mệnh lệnh khó chịu: “Chúng ta phải thực hiện những trách nhiệm tư tưởng và tuân theo số phận; chúng ta phải đứng vững trên hai chân, không được quỳ gối, không được ngã lòng, phải giữ vững vị trí cho đến hơi thở cuối cùng hay khi nhiệm vụ chưa hoàn thành”.

“Giải quyết triệt để vấn đề Do Thái”, ở khía cạnh nào đó, chỉ là vấn đề kỹ thuật, như người ta giết rận mà thôi: “Diệt rận không phải là vấn đề thế giới quan, đấy là vấn đề vệ sinh (…) chẳng bao lâu nữa sẽ không còn một con rận nào” (ngày 24 tháng 4 năm 1943). Hình ảnh loài côn trùng cần phải bị tiêu diệt thường xuất hiện khi người ta nói về kẻ thù tư tưởng. Lenin cũng hay sử dụng hình ảnh này. Nhưng Himmler, với vai trò một thủ trưởng mẫu mực, dùng nó để động viên, khuyến khích thính giả. Ông ta biết rằng họ sẽ khó khăn: một lúc nào đó, lương tâm có thể sẽ cắn rứt, cho nên để thực hiện một số nhiệm vụ nào đó, “luôn phải nhận thức được rằng chúng ta đang tiến hành cuộc đấu tranh chủng tộc, nguyên thủy, tự nhiên và hợp quy luật” (ngày 1 tháng 12 năm 1943). Bốn cái nhãn này mô tả chính xác đặc điểm của nền đức dục Quốc xã.

Trong diễn văn đọc ngày 6 tháng 12 năm 1943, Himmler trình bày quan điểm của mình về việc “giải quyết triệt để vấn đề Do Thái” như sau: “Mệnh đề ‘người Do Thái phải bị tiêu diệt’ chỉ chứa có vài từ và được nói rất nhanh, thưa các ngài. Nhưng điều nó đòi hỏi ở người thực hiện lại là nặng nề nhất và khó khăn nhất. Dĩ nhiên, bọn Do Thái chỉ đơn giản là Do Thái, rõ ràng là như thế; nhưng xin các vị hãy suy nghĩ, có biết bao nhiêu người, kể cả các đảng viên, đã đề đạt với các cơ quan khác nhau, họ tuyên bố rằng dĩ nhiên Do Thái là bọn lợn, ngoại trừ tên này hay tên kia, chúng là những tên Do Thái trung thực không nên động đến. Tôi có thể nói rằng: căn cứ vào số đơn từ và ý kiến đó, số Do Thái trung thực ở Đức còn nhiều hơn số dân Do Thái nói chung (…). Tôi khẩn thiết đề nghị các vị hãy nghe những điều tôi nói ở đây, trong một nhóm nhỏ này và sau này sẽ không bao giờ nói lại nữa. Trước mặt các vị có một vấn đề: làm gì với phụ nữ và trẻ con? Tôi đã định thần và trong trường hợp này cũng tìm được giải pháp rõ ràng. Tôi cảm thấy không có quyền tiêu diệt đàn ông nhưng lại để lại những đứa trẻ con để sau này chúng sẽ báo thù con chúng ta, báo thù những thế hệ sau của chúng ta. Cần phải chấp nhận một quyết định đầy khó khăn, đấy là quét sạch dân tộc này khỏi mặt đất. Đối với cái tổ chức phải thực hiện nhiệm vụ này thì đây là nhiệm vụ khó khăn nhất mà nó từng thực hiện. Tôi nghĩ tôi có thể nói rằng: nhiệm vụ này phải được thực hiện sao cho dân chúng, các sĩ quan của chúng ta không bị đau khổ về mặt tình cảm và tâm hồn. Nhưng mối nguy hiểm như thế quả thật là đang tồn tại. Con đường giữa hai khả năng: trở nên quá cứng rắn, tàn nhẫn và đánh mất hết sự tôn trọng đối với đời sống của con người hoặc là trở thành quá mềm yếu và mất tinh thần đến mức động kinh, con đường giữa Scylla và Charibdys [1] là con đường cực kỳ hẹp.”

Cái đạo trung dung mà Himmler đòi hỏi đôi khi cũng đạt được: trên thực tế, có nhiều tên đồ tể có tiếng lại là những ông bố dịu dàng, những người đàn ông đầy tình cảm. Ông ta yêu cầu rằng “nhiệm vụ” phải được thi hành mà không có những động cơ “ích kỷ”, thi hành một cách bình tĩnh, không được ngã lòng. Rượu chè, hiếp dâm, cướp bóc những người bị đi đày vì quyền lợi riêng, rơi vào trạng thái cuồng sát một cách vô ích đều là biểu hiện của tình trạng vô kỷ luật, hỗn loạn, đánh mất lý tưởng của chủ nghĩa Quốc xã, cần phải bị lên án và trừng phạt.

*

Đạo đức Quốc xã buộc người ta phải tuân theo trật tự do thiên nhiên qui định. Nhưng cái trật tự tự nhiên đó không thể nhận thức được bằng quan sát mà được rút ra từ sự hiểu biết về mặt tư tưởng. “Chủng tộc da trắng” đại diện cho bên thiện, còn “chủng tộc” Do Thái là bên ác. Cuộc đấu tranh mang tầm vũ trụ sẽ kết thúc bằng chiến thắng của phía bên này hay bên kia.

Nhưng đây chính là sự giả dối. Không có “chủng tộc” theo cách hiểu của những người Quốc xã. Không có “một người thượng đẳng da trắng cao to” ngay cả nếu ta có thể tưởng tượng được một người Đức da trắng cao to. Và cũng không có “người Do Thái” theo cách hiểu của họ, vì cái hình ảnh chủng tộc mà người Quốc xã tạo ra chỉ có những nét trùng hợp vô tình với diện mạo của một dân tộc trong Kinh Cựu ước mà thôi. Đảng viên Quốc xã cho rằng họ hiểu được tự nhiên, nhưng tự nhiên lại nằm sau các sơ đồ của họ. Hoàn cảnh lịch sử và chiến tranh cũng bị nhận thức một cách sai lệch. Vì chủ nghĩa Quốc xã mà Hitler khởi chiến và cũng vì chủ nghĩa Quốc xã mà hắn đã thất bại. Stalin đã nắm thế thượng phong vì ông ta biết gạt hệ tư tưởng của mình sang một bên khi cần chuẩn bị cho chiến thắng. Hệ tư tưởng của chủ nghĩa Lenin tỏ ra “tốt hơn” vì nó cho phép những giai đoạn tạm dừng và sự kiên nhẫn về mặt chính trị, còn chủ nghĩa Quốc xã lại đầy xung động nên không thể làm như thế.

Luân lý Quốc xã là sự phủ nhận truyền thống đạo đức của toàn thể loài người. Chỉ một nhóm nhỏ các nhà tư tưởng ngoại vi đã nêu ra một vài đề tài mỹ học như một hình thức khiêu khích. Còn trên thực tế thì loại hình chủ nghĩa hiện thực do họ đề nghị: siêu nhân, người chưa thành nhân, khát vọng quyền lực, hư vô chủ nghĩa, chủ nghĩa phi lý đã đẩy họ vào lĩnh vực mỹ học. Nhưng đấy chỉ là cái tầm thường nghệ thuật dễ làm mê hoặc lòng người: những buổi trình diễn ở Nuremberg, các kiến trúc to lớn của Speer, sức mạnh thô bạo. Nhưng về mặt đạo đức thì nó không tìm ra được một người kế tục nghiêm túc nào trong lịch sử; trong lĩnh vực này, sự thoái hoá của nó là rõ ràng, nó cũng không thể được diễn dịch vào ngôn ngữ chung của nhân loại. Đấy là hai điểm yếu mà người ta thường đem so sánh với đạo đức cộng sản.

Đấy là lý do vì sao đạo đức Quốc xã ít lây nhiễm hơn đạo đức cộng sản, còn sự phá hoại đức hạnh của chủ nghĩa phát xít cũng không rộng lớn bằng. Các chủng tộc “thấp hèn”, các chủng tộc “chưa thành nhân” nhìn thấy ngay mối nguy hiểm chết người không thể nào tránh khỏi trong học thuyết này và vì vậy mà không bị nó lôi cuốn. Chính nhân dân Đức đi theo Hitler chủ yếu là vì tinh thần dân tộc hơn là vì chủ nghĩa Quốc xã. Tinh thần dân tộc - một tình cảm tự nhiên được hun đúc trong suốt hai thế kỷ trước - là một nguồn năng lực và nhiên liệu đối lập với các luận điểm của chủ nghĩa Quốc xã cũng như chủ nghĩa cộng sản. Một số người thuộc tầng lớp tinh hoa Đức đã ủng hộ Hitler, nhưng tính chất quý tộc nhuốm màu du đãng của các đội quân của Hitler lại chẳng có gì chung với tầng lớp tinh hoa cũ. Tầng lớp tinh hoa theo tinh thần Nietzsche, cũng như tất cả những người khác, đã mắc bẫy. Còn sự trung thành của hàng ngũ sĩ quan thì đấy là do truyền thống được củng cố bởi những nhóm theo Kant hay Hegel. Binh lính thì chỉ biết tuân phục.

Đấy là lý do vì sao đỉnh cao lý luận của chủ nghĩa Quốc xã, nghĩa là sự tiêu diệt về mặt thể xác dân tộc Do Thái, rồi sau đó là những dân tộc khác lại là bí mật của đế chế, mà lại là bí mật được bảo vệ kỹ lưỡng nhất. “Đêm pha lê”, được coi là vụ kiểm nghiệm, một cố gắng để tập hợp và giải thích cho người Đức về dự án vĩ đại đã không thành công về mặt chính trị. Lúc đó, Hitler mới quyết định xây dựng bên ngoài lãnh thổ lịch sử của nước Đức sáu trung tâm giết người hàng loạt.

Sự phá hoại về mặt đạo đức của chủ nghĩa Quốc xã có thể mô tả như những vòng tròn xung quanh một hạt nhân trung tâm, vài đoạn trong những bài diễn văn đã dẫn ở trên cho ta thấy hình ảnh của cái hạt nhân này. Hạt nhân được hình thành từ những kẻ hoàn toàn chấp nhận chủ nghĩa Quốc xã: cốt cán của đảng, cốt cán của Waffen-SS, cốt cán của GESTAPO. Những người tiến hành công việc giết người thì ít hơn. Đa số họ không cần chủ nghĩa Quốc xã: năng lực công nghệ và công nghiệp phát triển cao của Đức cho phép tiết kiệm sức lao động. Chỉ cần mấy trăm tên SS quản lý các trại tử thần, chúng giao công việc “đen tối” cho chính các nạn nhân. Các đội Einsatzgruppe được hình thành từ những kẻ chẳng cần qua một giai đoạn huấn luyện nào. Trong một số tác phẩm, người ta đã nói rằng thành viên của những đơn vị giết người này, về lý thuyết, có thể xuất ngũ được. Nhưng họ sẽ gặp nhiều rắc rối, mà ít nhất là bị điều ra mặt trận phía Đông. Những người này là quỷ dữ, nhưng không thể nào nói rằng họ là những kẻ cuồng tín tư tưởng Quốc xã. Ở dân tộc nào cũng có thể tìm được đủ số những kẻ giết người và tra tấn khi cần. Màu sắc tư tưởng chỉ giúp chúng dễ dàng thể hiện khuynh hướng và cho phép chúng phất lên mà thôi.

Có người đã nhấn mạnh rằng hoạt động của các Einsatzgruppe không thể là bí mật đối với quân đội vì so với bộ đội thì họ ở hậu phương; mục đích của các đoàn tàu cũng như việc tiêu diệt các khu vực của người Do Thái không phải là điều mà ngưới ta phải nghi ngờ; và mặc dù các khu vực xung quanh các trại tử thần là khu “trắng” đi chăng nữa thì tin tức cũng thường lọt ra ngoài. Hilberg viết rằng đấy là “bí mật mà mọi người đều biết”. Dĩ nhiên là như thế, nhưng cần phải lưu ý hai điều sau đây.

Bí mật mà mọi người đều biết thì không phải là chính sách hay sự kiện được công bố công khai. Người Đức đi theo Hitler vì kỷ luật quân sự và kỷ luật công dân, vì tinh thần dân tộc, vì sợ hãi, vì không dám nghĩ hay thực hiện các hành động phản kháng. Bí mật, ngay cả khi đã không còn là bí mật nữa, đã giải thoát họ khỏi trách nhiệm tinh thần, hoặc ít nhất đã giúp họ giả vờ, giúp họ quay lưng hay làm ra vẻ như không có gì xảy ra cả. Trong chế độ Quốc xã xã hội vẫn còn một ít quyền. Hàng ngũ sĩ quan tức một số khá đông người vẫn còn giữ được lòng trung thành với luật pháp và truyền thống tiến hành chiến tranh, ít nhiều còn giữ được danh dự. Tài sản tư hữu chưa bị xoá bỏ, như vậy là xã hội công dân phần nào cũng vẫn còn. Bộ phim Danh sách Schindler dựa trên câu chuyện có thật về nhà doanh nghiệp người Đức Oskar Schindler có khả năng thu gom và bảo vệ người lao động Do Thái. Không thể tưởng tượng một chuyện như thế ở Nga ngay cả trong những năm đầu của chính quyền cộng sản.

Đối với một người bình thường thì bí mật này là không thể tưởng tượng được. Phần lớn dân Đức lúc đó vẫn còn sống trong một xã hội quen thuộc, vẫn theo đạo đức truyền thống, họ không thể tưởng tượng được điều sẽ chờ đợi họ trong tương lai, vì vậy, họ khó tin cái hiện thực mà người ta cố tình che giấu, khó tin ngay cả những tang chứng. Chính người Do Thái, sau khi đã bị tước đoạt, bị tập trung và đưa lên tàu hoả cũng không tin vào hiện thực ngay trước khi bước vào lò hơi ngạt.

Nền giáo dục Quốc xã chỉ tồn tại có mấy năm. Khi nước Đức bị đồng minh chiếm đóng, chủ nghĩa Quốc xã biến mất ngay lập tức, ít nhất thì chuyện đó đã diễn ra ở Tây Đức; bên Đông Đức nó đã chuyển hoá thành một dạng khác. Nó biến mất, trước hết, vì bị các quan toà Đức cũng như quan toà quốc tế kết án. Thứ hai, đa số dân chúng chưa bị nó nhồi sọ một cách triệt để. Cuối cùng, nó biến mất vì những người Quốc xã sau khi tỉnh ngộ đã không tìm được mối liên hệ rõ ràng giữa quá khứ, khi họ còn nằm dưới tác động ma thuật của hệ tưởng, và hiện tại, khi cái tác động kia đã không còn. Eichmann [2] đã trở lại với bản chất của một viên chức bậc trung như hắn ta từng là trước đây và có thể sẽ là sau này nếu không bị bắt và bị kết án. Hắn đã chấp nhận bản án một cách thụ động, đúng với tính cách nhạt nhẽo của hắn. Bản luận tội, như Hannah Arendt đã nói rất đúng, không phù hợp với nhận thức hạn chế của con người tầm thường này.


Sự xuyên tạc tính thiện của chủ nghĩa cộng sản

Chủ nghĩa cộng sản là đạo đức. Toàn bộ các lịch sử các phong trào tiền thân của chủ nghĩa Bolshevik (phong trào xã hội chủ nghĩa Pháp và Đức, phong trào dân túy Nga) đều dựa vào yêu cầu đạo đức và chiến thắng của nó đồng nghĩa với chiến thắng của cái thiện. Mỹ học không theo kịp cái đẹp. Đảng viên Quốc xã coi mình là nghệ sĩ, còn người cộng sản thì coi mình là chân nhân.

Cơ sở của nền đạo đức này nằm trong hệ thống giải thích và được rút ra từ tri thức. Chủ nghĩa cộng sản dạy rằng khởi kỳ thủy, tự nhiên không phải là tự nhiên theo hệ thống thang bậc, dãn man và nhẫn tâm mà con người siêu nhân Quốc xã sùng bái. Không, nó giống như tự nhiên đầy thiện ý trong tác phẩm của Rousseau. Tự nhiên này đã biến mất, nhưng chủ nghĩa xã hội sẽ tái tạo nó trên một mức độ cao hơn và khi đó, con người có thể thể hiện được toàn bộ khả năng của mình. Trotsky khẳng định rằng: con người bình thường của nhân loại trong tương lai sẽ là Michelangelo và Leonardo da Vinci. Chủ nghĩa cộng sản dân chủ hoá con người siêu nhân.

Quá trình tự nhiên cũng là quá trình lịch sử vì chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định sự thống nhất giữa tự nhiên và lịch sử. Chủ nghĩa cộng sản vớ lấy đề tài về sự tiến bộ, một đề tài vĩ đại thời Khai sáng, trái ngược hoàn toàn với đề tài thoái hoá và suy đồi của chủ nghĩa Quốc xã nhưng sự tiến bộ lại đầy bi kịch, phải trải qua những sự tàn phá to lớn và không thể nào tránh được. Ở đây, chúng ta thấy bóng dáng của Hegel và đặc biệt là cuộc đấu tranh sinh tồn không khoan nhượng của học thuyết Darwin đem áp dụng vào xã hội. “Quan hệ sản xuất xã hội (‘Chế độ chiếm nô’, ‘chế độ phong kiến’, ‘chế độ tư bản’) thay thế nhau như các vương quốc trong thế giới động vật, như loài có vú thay cho loài lưỡng cư. Có một sự thống nhất bí mật giữa chủ nghĩa Quốc xã và chủ nghĩa cộng sản: “Không đập vỡ trứng thì làm sao có món trứng rán”, “Chặt cây thì mảnh phải văng ra”… Cả hai bên đều coi lịch sử là sư phụ. Chủ nghĩa Quốc xã khôi phục thế giới trong vẻ đẹp của nó, còn chủ nghĩa cộng sản khôi phục thế giới trong tính thiện của nó.

Sự khôi phục phụ thuộc vào ý chí của con người đã được tư tưởng soi sáng. Chủ nghĩa Lenin còn lệ thuộc vào sơ đồ nhận thức luận hai mâu thuẫn đối kháng và ba giai đoạn hơn cả chủ nghĩa Quốc xã. Quá khứ là công xã nguyên thủy, tương lai là chủ nghĩa cộng sản, còn hiện tại là cuộc đấu tranh giữa hai mâu thuẫn cơ bản. Các lực lượng thúc đẩy cuộc vận động về “phía trước” là tốt, còn lực lượng “cản trở” là xấu, là ác. Hệ tư tưởng (có căn cứ khoa học) mô tả bản chất của cái ác. Đấy không phải là tồn tại mang tính sinh vật (chủng tộc hạ đẳng) mà là tồn tại mang tính xã hội, thâm nhập vào toàn bộ xã hội: tư hữu, chủ nghĩa tư bản, đạo đức, luật pháp và văn hoá, là thượng tầng kiến trúc của cái ác, có thể được coi là “linh hồn của chủ nghĩa tư bản”. Những người hiểu được quá trình chuyển tiếp của các giai đoạn và hai mâu thuẫn cơ bản, những người nhận thức được bản chất của trật tự của tự nhiên và xã hội và hiểu được xu hướng tiến hoá và phương tiện để thúc đẩy quá trình tiến hoá tập hợp vào một tổ chức thống nhất, tạo ra đảng.

Như vậy, tất cả mọi phương tiện đưa đến mục đích mà người cách mạng tiên đoán được đều là tốt. Vì quá trình đó cũng là quá trình tiến hoá tự nhiên và phù hợp với lịch sử nên việc phá bỏ chế độ cũ là cần thiết để cho cái mới mau đến hơn mà thôi. Cách diễn đạt của Bakunin khi ông này tổng kết nhận thức của mình về Hegel đã trở thành tiền đề của chủ nghĩa cộng sản: tinh thần phá hoại cũng là tinh thần xây dựng. Trước khi có chủ nghĩa cộng sản, những người dân túy, xuất phát từ nhận thức của họ, đã nhận thức sâu sắc sự cần thiết của một cuộc cách mạng đạo đức. Chernyshevsky, Nechayev, Tkachev đã phát triển trong văn chương đề tài “con người mới”, còn Dostoievsky thì viết những tác phẩm trào phúng về đề tài này, ông là người hiểu rõ ý nghĩa siêu hình của nó. Con người mới là con người nắm được đạo đức mới, trung thành tuyệt đối với mục đích, người kiên trì thanh tẩy tàn dư của đạo đức cũ do “kẻ thù giai cấp” truyền bá nhằm kéo dài sự thống trị của chúng. Lenin xác lập đạo đức cộng sản. Trotsky thì viết một cuốn sách nhỏ về đạo đức “của chúng nó” và “của chúng ta”.

Điều đáng ngạc hiên là không có ai ở bên ngoài phong trào cách mạng nhận thức được sự hẫng hụt về mặt đạo đức này. Để mô tả nền đạo đức mới, chủ nghĩa cộng sản đã vay mượn ngôn từ của nền đạo đức cũ: công bằng, bình đẳng, tự do,… Thế giới mà cộng sản chuẩn bị phá bỏ quả thực đầy rẫy bất công và áp bức. Những người khao khát sự công bằng không thể không công nhận rằng cộng sản là những người lên án những điều bất công này một cách hăng say nhất. Cả những người yêu chuộng công bằng lẫn những người cộng sản đều nói rằng không só sự công bằng trong việc phân chia tài sản. Một người tốt, một người tuân theo lý tưởng công bằng sẽ tìm cách làm cho việc tái phân phối tài sản được thực hiện một cách tốt đẹp hơn. Nhưng đối với người cộng sản thì tư tưởng công bằng không nằm trong khái niệm chia một cách “công bằng” mà nằm trong việc thiết lập chế độ xã hội chủ nghĩa, nằm trong việc xoá bỏ tư hữu và bằng cách đó xoá bỏ mọi cách chia, xoá bỏ chính sự chia và quyền của các bên tham gia vào quá trình phân chia. Khai sinh ra nhận thức về sự bất bình đẳng, nhưng người cộng sản không đặt mục tiêu chỉ ra sự khiếm khuyết của luật pháp: mục tiêu của họ là tạo trong dân chúng lòng khát khao một xã hội mà ở đó, pháp luật không còn là phương tiện điều chỉnh nữa. Tương tự như thế, tư tưởng cộng sản về tự do đặt mục đích khích động nhận thức về sự áp bức ở nơi mà cá nhân, nạn nhân của sự vong thân tư bản chủ nghĩa coi mình là tự do. Nói tóm lại, tất cả các ngôn từ thể hiện cái thiện: công bằng, tự do, nhân bản, từ tâm, khoan dung, v.v... đã biến thành công cụ cho một mục đích duy nhất, cho việc thiết lập chế độ cộng sản, một chế độ bao hàm và hiện thực hoá tất cả những điều tốt đẹp đó.

Nhưng có những tiêu chí đơn giản có thể đánh tan được sự lầm lẫn này. Tôi gọi nền đức hạnh mà các nhà thông thái thời cổ đại, cũng như các nhà thông thái Trung Quốc, Ấn Độ và châu Phi dựa vào là đức hạnh tự nhiên hay đức hạnh phổ thông. Trong thế giới Thiên Chúa giáo, đức hạnh này được trình bày tóm tắt trong nửa sau của “Mười điều răn”. Đạo đức cộng sản hoàn toàn trái lại. Mục đích của nó là tiêu diệt tư hữu và những điều liên quan đến sở hữu là luật pháp và tự do, nó còn đặt ra mục tiêu là cải tạo cả các quan hệ gia đình nữa. Nó cho mình quyền dối trá và sử dụng bạo lực như là phương tiện để chiến thắng trật tự cũ và thiết lập trật tự mới. Cơ sở của đạo đức cộng sản trái ngược hoàn toàn với điều răn thứ 5 (“hiếu kính cha mẹ”), điều răn thứ 6 (“chớ giết người”), điều răn thứ 7 (“chớ phạm tội tà dâm”), điều răn thứ 8 (“chớ trộm cướp”), điều răn thứ 9 (“chớ làm chứng dối cho kẻ lân cận mình”) và điều răn thứ 10 (“chớ tham điều gì của kẻ lân cận”). Không cần phải là người tin vào Thánh kinh, vẫn có thể đồng ý với tinh thần của những điều răn mà mọi người trên trái đất đều biết nói trên. Nhiều người cho rằng có những hành vi tốt, hành vi chân chính vì những hành vi này phù hợp với những qui luật của vũ trụ mà họ biết. Chủ nghĩa cộng sản khẳng định có một vũ trụ mới và một nền đạo đức mới phù hợp với nó. Đấy là lý do vì sao chủ nghĩa cộng sản bác bỏ không chỉ các điều răn mà còn bác bỏ cả cơ sở của nó, tức là thế giới tự nhiên. Chúng ta nói rằng đạo đức cộng sản dựa vào tự nhiên và lịch sử, nhưng không phải như thế: đạo đức cộng sản dựa vào siêu nhiên và lịch sử đã bị tước bỏ chân lý.

“Chế độ Xô viết”, Raymond Aron viết trong cuốn Chế độ dân chủ và chế độ toàn trị, “thoát thai từ ý chí cách mạng, được cổ vũ bởi lý tưởng nhân đạo. Mục đích là tạo ra một chế độ nhân bản nhất mà lịch sử từng biết tới, một chế độ mà lần đầu tiên con người có điều kiện trở thành nhân ái, một chế độ không còn giai cấp, nơi sự thống nhất của toàn xã hội tạo điều kiện cho các công dân tôn trọng lẫn nhau. Nhưng cái phong trào hướng đến mục tiêu tối thượng này lại không dừng lại trước bất cứ phương tiện nào vì theo học thuyết thì chỉ bạo lực mới có thể giúp tạo ra xã hội hoàn hảo đó và vì vậy, giai cấp vô sản đã bị lôi kéo vào cuộc đấu tranh không khoan nhượng với chủ nghĩa tư bản. Các giai đoạn khác nhau của chế độ Xô viết xuất hiện từ sự kết hợp giữa cái mục đích cao cả và phương tiện tàn nhẫn nói trên.”

Mấy câu đã dẫn trên đây thể hiện rõ ràng tính chất nước đôi và dối trá của chủ nghĩa cộng sản. Vì cái mà họ gọi là nhân văn và nhân ái trên thực tế lại là siêu nhân văn và siêu nhân ái, đây chính là cái mà hệ tư tưởng cộng sản hứa mang đến cho nhân loại. Lòng nhân văn và nhân ái đó không kèm theo quyền và không có tương lai. Các giai cấp không thể chung sống hoà bình, tất cả rồi sẽ biến mất. Xã hội không thể thống nhất, tính tự chủ và tính năng động vốn có của nó đã không còn. Không phải là giai cấp vô sản tiến hành chiến tranh chống lại chủ nghĩa tư bản mà là một hệ tư tưởng đã hành động và tiến hành chiến tranh nhân danh giai cấp vô sản. Cuối cùng, chủ nghĩa tư bản cũng chỉ còn tồn tại trong sự tương phản với chủ nghĩa xã hội, mà chính chủ nghĩa xã hội cũng chỉ còn trong khuôn khổ của hệ tư tưởng, nghĩa là khái niệm chủ nghĩa tư bản cũng không thể dùng để mô tả cái hiện thực cần phải bị loại bỏ được nữa. Mục đích không còn cao quý nữa, nó chỉ khoác màu sắc cao quý mà thôi. Phương tiện, nghĩa là việc sát sinh, đã trở thành mục đích khả thi duy nhất.

Kết luận đoạn so sánh dài một cách đáng khâm phục giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa Quốc xã, Raymond Aron viết: “Tôi kiên quyết khẳng định rằng có sự khác nhau đáng kể giữa hai hiện tượng này, dù chúng có giống nhau đến mức nào. Sự khác nhau đáng kể là hậu quả của những tư tưởng cổ động cho hai phong trào nói trên. Một phong trào thì kết thúc bằng trại lao động cải tạo, còn phong trào kia thì là buồng hơi ngạt. Một phong trào đặc trưng bởi ý chí xây dựng một xã hội mới và có thể cả con người mới bằng mọi phương tiện, còn đặc trưng của phong trào kia là một ý chí ma quái nhằm tiêu diệt một chủng-tộc-giả định”.

Tôi công nhận có sự khác nhau giữa chủ nghĩa Quốc xã và chủ nghĩa cộng sản trên cơ sở những luận cứ sẽ được trình bày dưới đây. Những điều đã dẫn không thuyết phục được tôi. Chủ nghĩa Quốc xã cũng thiết kế ra một xã hội mới, con người mới và cũng bằng mọi phương tiện. Không thể biết giữa việc tiêu diệt một chủng-tộc-giả-định, sau đó đến lượt các chủng-tộc-giả-định khác, kể cả chủng tộc “siêu đẳng” vì tất cả các chủng tộc đều hư hỏng và việc tiêu diệt một giai-cấp-giả-định trước, rồi sau đó đến lượt các giai cấp khác vì tất cả các giai cấp đều tiêm nhiễm tinh thần của chủ nghĩa tư bản, cái nào ma quái hơn.

Raymond Aron kết luận: “Nếu phải nói một cách cực kỳ ngắn gọn ý nghĩa của mỗi phong trào nói trên thì tôi sẽ đề nghị công thức như sau: đối với chế độ Xô viết, tôi xin nhắc lại một câu mà ai cũng biết: “Kẻ muốn tạo ra một thiên thần lại tạo ra được một quỷ dữ”; còn đối với chế độ của Hitler thì tôi xin nói: “Con người có lẽ đã lầm lẫn khi muốn mình hao hao như thú dữ vì anh ta đã rất thành công trong chuyện này.”

Cái nào hay hơn: Trở thành thú với dáng vẻ thiên thần hay là người với dáng vẻ thú, nếu có thể chứng minh được rằng cả hai đều là những con thú dữ? Trường hợp thứ nhất, mức độ dối trá cao hơn và sức mê hoặc cũng nhiều hơn, sự xuyên tạc tính thiện cũng triệt để hơn vì ở đây cái ác lại có vẻ thiện, khác hẳn với tội ác không hề che giấu của chế độ Quốc xã. Điều đó đã tạo điều kiện cho chủ nghĩa cộng sản truyền bá rộng hơn và làm rung động nhiều người, những người sẽ tránh né ngay lập tức các dự án của bọn SS. Làm cho những người tốt trở thành xấu có lẽ là việc ghê tởm hơn là làm cho kẻ xấu trở thành xấu hơn. Lập luận của Raymond Aron làm cho ta hiểu được sự khác nhau của ý đồ. Ý đồ của chủ nghĩa Quốc xã mâu thuẫn với điều thiện được toàn thể nhân loại công nhận. Ý đồ của chủ nghĩa cộng sản lại bóp méo nó, vì trông nó có vẻ thiện và lôi kéo nhiều người thiếu chú ý tham gia vào dự án. Dự án đã không hoàn thành cho nên không thể xét đoán nó về mặt đạo đức, chỉ còn lại các phương tiện, các phương tiện này không có khả năng đưa tới mục đích, chúng đã trở thành mục đích trên thực tế. Kèm theo tội ác, sự dối trá làm cho tội lỗi càng có sức hấp dẫn và trở thành nguy hiểm hơn.

Trở thành hấp dẫn hơn vì chủ nghĩa Lenin đã ăn cắp di sản của một lý tưởng có nguồn gốc lâu đời nhất. Trong thời điểm cải đạo, nhiều người không có khả năng nhận thức được sự xuyên tạc lý tưởng. Đôi khi có người suốt đời là đảng viên cộng sản mà không biết có sự xuyên tạc như thế. Sự lầm lẫn giữa đạo đức cũ (được mọi người công nhận) với đạo đức mới chưa bao giờ được làm sáng tỏ tới cùng. Vì chưa được làm sáng tỏ tới cùng như thế nên trong các đảng cộng sản, vẫn còn một số “người đứng đắn”, sự thoái hoá đạo đức của họ được triển hạn và chính vì có họ mà sự tha thứ đã diễn ra một cách dễ dàng hơn. Một cựu đảng viên cộng sản thì dễ dàng được tha thứ hơn là một cựu đảng viên Quốc xã vì người ta ngờ rằng ngay từ khi ra nhập đảng Quốc xã, hắn ta đã đoạn tuyệt với đạo đức truyền thống.

Nguy hiểm hơn vì cách nhồi sọ của cộng sản nham hiểm hơn và thường xuyên hơn, vì nó biến việc ác thành việc thiện và buộc người ta phải làm điều ác. Tội ác của cộng sản nguy hiểm hơn còn vì rằng nạn nhân của nó không thể nào đoán trước được. Trên thực tế, bất kỳ người nào, vào bất cứ lúc nào, cũng có thể được gán cho những đặc điểm tưởng tượng của kẻ thù. Chế độ Quốc xã xác định rõ ngay từ trước các kẻ thù của nó. Nó gán cho kẻ thù của mình những tính chất quái gở, như khi họ nói đến những kẻ bất thành nhân thì ta biết ngay đấy là người Do Thái, khi họ nói đến người Slav đáng khinh thì ta biết ngay đó có thể là người Ba Lan hay người Ukraine bằng xương bằng thịt hẳn hoi. Người nào không phải gốc Do Thái hay Ba Lan hoặc Ukraine thì được tạm hoãn. Khi chưa cướp được chính quyền thì tính chất toàn nhân loại là một ưu điểm lớn của chủ nghĩa cộng sản so với tính độc tôn của chủ nghĩa Quốc xã, nhưng tính chất này lại trở thành mối đe doạ mang tầm nhân loại khi chủ nghĩa cộng sản nắm được chính quyền. Chủ nghĩa tư bản, trong ngôn từ của những người cộng sản, chỉ là một tồn tại mang tính tư tưởng, bất cứ người nào hay hiện tượng gì cũng có thể được coi là tư sản và bị nó nguyền rủa: trung nông, bần cố, trí thức, vô sản và cuối cùng là chính đảng cũng có thể được coi là đi theo con đường tư bản. Tất cả đều có thể bị nhiễm tư tưởng tư sản. Không có ai thoát khỏi được sự ngờ vực.

*

Các lãnh tụ Quốc xã đã nhận thức được một phần hiện thực khi họ nói rằng sẽ có máu và nước mắt, họ đã nhìn thấy trước cuộc chiến đấu một mất một còn để khôi phục lại trật tự sắc tộc vốn có của nhân loại. Lenin thì ngược lại, ông ta cho rằng thời cơ đã chín muồi, chỉ cần lật đổ được “chủ nghĩa tư bản” là tương lai tươi sáng của thế giới sẽ thành hiện thực. Ngọn lửa cách mạng sẽ bao trùm khắp thế giới. Chỉ cần những kẻ tước đoạt bị tước đoạt là các hình thức của chủ nghĩa xã hội sẽ tự xuất hiện. Nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra buổi sáng sau ngày 7 tháng 11 năm 1917 cả, bức màn được kéo lên nhưng đằng sau nó hoá ra là một sân khấu trống không. Giai cấp vô sản, bần cố nông, trung nông và tinh thần quốc tế vô sản đâu hết cả rồi? Chỉ có Lenin và đảng của mình cùng với một nhóm cận vệ đỏ giữa một thế giới đầy thù nghịch hay ít nhất cũng là một thế giới bàng quan.

Nhưng chủ nghĩa Marx-Lenin lại là một khoa học. Nghĩa là, kinh nghiệm phải cung cấp bằng chứng cho lý thuyết. Chủ nghĩa tư bản đã bị lật đổ, điều quan trọng bây giờ là thắng lợi hoàn toàn của chủ nghĩa xã hội. Vì hiện nó chưa thắng lợi nên phải xây dựng nó theo đúng lý thuyết và phải kiểm tra để kết quả luôn phù hợp với lý thuyết. Từng tầng, từng tầng một của cái thế giới giả tạo có nhiệm vụ thay thế cho thế giới hiện thực được xây dựng lên như thế đấy. Sự dối trá đã phủ bóng đen ngày một dày đặc hơn của nó lên toàn bộ xã hội, lời nói và việc làm ngày càng xa rời nhau. Phủ nhận sự hiện diện của cái ác được coi là thiện và cái “thiện” đó cứ thế điên cuồng sinh sôi nảy nở.

Sự xuống cấp về mặt đạo đức trong chế độ cộng sản chủ yếu phát triển theo con đường như thế. Cũng như trong chế độ Quốc xã, nó lan truyền theo những vòng tròn đồng tâm xung quanh một hạt nhân trung tâm.

Trung tâm là đảng, trong đảng là nhóm lãnh đạo của nó. Trong thời kỳ mới giành được quyền lực, nhóm lãnh đạo này hoàn toàn bị hệ tư tưởng chi phối. Đấy là lúc nó tiến hành “tiêu diệt kẻ thù giai cấp”. Do lương tâm đã bị đầu độc, nhân danh lý thuyết không tưởng, người ta tiến hành tiêu diệt hàng loạt nhóm người khác nhau. Nhìn về quá khứ, ta thấy dù ở Nga, ở Triều Tiên, Trung Quốc, Rumani, Ba Lan hay Campuchia thì vụ tắm máu đầu tiên này cũng là một trong những vụ giết người lớn nhất trong lịch sử của chế độ cộng sản, trong giai đoạn này khoảng 10% dân số đã bị giết hại.

Khi giấc mơ không tưởng không thể nào trở thành hiện thực được, còn mười người giết một cũng không đưa đến đâu thì sự không tưởng đã thoái hoá đơn thuần thành việc bám víu quyền lực. Vì kẻ thù khách quan đã bị tiêu diệt, cần phải theo dõi để làm sao cho nó không tái xuất hiện, kể cả khả năng xuất hiện trong hàng ngũ của đảng. Đấy là lúc bắt đầu cuộc khủng bố giai đoạn hai, một cuộc khủng bố có vẻ vô nghĩa, vì nó không tương xứng với sự chống đối và chỉ nhằm áp đặt sự kiểm soát hoàn toàn lên tất cả mọi người dân, mọi ý nghĩ, mọi tư tưởng. Sợ hãi trở thành tài sản chung, nó lan truyền vào cả trong đảng, mỗi đảng viên đều cảm thấy nguy hiểm. Người này tố giác người kia, người này phản bội người kia. Tất cả, không trừ một ai.

Sau đó đến giai đoạn ba: đảng đưa ra các biện pháp chống lại những vụ thanh trừng thường xuyên. Đảng chấp nhận sự phân phối quyền lực hủ bại và hài lòng với sự an toàn của chính mình. Đảng không còn tin vào hệ tư tưởng nữa nhưng vẫn tiếp tục nói bằng ngôn ngữ của nó và theo dõi để cái ngôn ngữ mà nó biết rõ là dối trá trở thành ngôn ngữ giao tiếp duy nhất: đấy chính là dấu hiệu rằng nó đang nắm quyền. Đảng tích cóp dần đặc quyền đặc lợi. Đảng trở thành một đẳng cấp riêng. Tham nhũng hiện diện khắp nơi. Dân chúng bây giờ không so sánh đảng viên với chó sói nữa mà so sánh với lũ lợn.

Tất cả dân chúng còn lại đều là ngoại vi. Tất cả và ngay lập tức được kêu gọi và huy động cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tất cả đều bị đe doạ, bị lừa dối, bị xúi giục tham gia làm những việc ác.

Trước hết, tất cả đều bị khoá chặt. Tất cả các chế độ cộng sản đều bế quan toả cảng, đấy là một trong những bước đầu tiên của chế độ. Cho đến năm 1939, Quốc xã vẫn cho người ta ra nước ngoài miễn là có người trả tiền: nước Đức chỉ càng “trong sạch” hơn mà thôi. Cộng sản không bao giờ cho đi như thế. Họ cần có một đường biên giới nội bất xuất ngoại bất nhập, bí mật của những vụ giết người hàng loạt và bí mật về sự thất bại của họ cần phải được bảo vệ, nhưng trước hết là vì cả nước phải trở thành một trường học, nơi tất cả sẽ nhận được một nền giáo dục đào tận gốc rễ tinh thần của chủ nghĩa tư bản và thay vào đó là tinh thần xã hội chủ nghĩa.

Bước thứ hai: kiểm soát thông tin. Dân chúng không được quyền biết những chuyện ở bên ngoài khối xã hội chủ nghĩa. Họ cũng không được quyền biết những điều xảy ra ở trong nước. Họ không được quyền biết về quá khứ. Họ không được quyền biết về hiện tại. Họ chỉ được quyền biết về tương lai tươi sáng mà thôi.

Bước thứ ba: thay hiện thực bằng giả-hiện-thực. Có cả một tầng lớp chuyên sản xuất ra báo-chí-giả, lịch-sử-giả, văn-chương-giả và nghệ-thuật-giả và tất cả đều có nhiệm vụ phản ánh cái hiện thực không hề tồn tại. Kinh-tế-học-giả thì tạo ra thống kê tưởng tượng. Đôi khi nhu cầu của các chuyên viên trang trí dẫn đến các biện pháp theo kiểu Quốc xã. Thí dụ, ở Liên Xô, người tàn tật do chiến tranh hay tai nạn lao động bị cách li khỏi xã hội và được đưa đến những khu vực xa xôi để họ không làm hỏng bức tranh chung. Ở Bắc Triều Tiên, như người ta nói, những người lùn bị đưa đi thật xa và bị cấm sinh con, “chủng tộc” này sẽ phải biến mất vĩnh viễn. Có hàng triệu người tham gia vào công việc trang trí như thế. Để làm gì? Để chứng tỏ rằng xã hội chủ nghĩa không chỉ là khả thi mà đang được xây dựng, đang được củng cố, hơn nữa, có thể xây dựng được: đã có một xã hội tự do và tự quản mới, nơi những “con người mới” suy nghĩ và hành động theo qui tắc của hiện-thực-bịa-tạc. Công cụ hữu hiệu nhất của chính quyền là chế tác ra ngôn ngữ mới, trong đó, từ ngữ có ý nghĩa khác hẳn với ý nghĩa đã được mọi người công nhận. Vốn từ vựng và cách thể hiện đặt nó ngang tầm với ngôn ngữ cúng tế: ngôn ngữ thế hiển tính siêu nghiệm của chủ nghĩa xã hội. Nó chứng tỏ sức mạnh vô địch của đảng. Việc sử dụng rộng rãi thú ngôn ngữ này là chỉ dấu cho thấy sự nô dịch đã thành công.

Trong thời kỳ đầu, phần đông dân chúng tự nguyện học nói dối. Người ta gia nhập đạo đức mới cùng với di sản đạo đức cũ. Họ yêu lãnh tụ, những người hứa hẹn mang lại hạnh phúc cho họ, họ tin rằng mình hạnh phúc. Họ nghĩ rằng đang sống trong một xã hội công bằng. Họ căm thù kẻ thù của chủ nghĩa xã hội, họ tố cáo chúng, đồng tình với việc cướp đoạt, xoá bỏ chúng. Họ tham gia hoặc ủng hộ vào việc tiêu diệt kẻ thù. Họ cùng tham gia thực hiện tội ác mà không biết. Trong khi đó, họ bị làm cho mụ mẫm đi bằng thông tin giả và logic giả. Họ đánh mất khả năng tự tri và đạo đức. Không còn khả năng phân biệt giữa chủ nghĩa cộng sản và lý tưởng đức hạnh được mọi người thừa nhận cho nên khi gặp phải những điều bất công, họ liền cho rằng đấy là do kẻ thù bên ngoài. Cho đến tận ngày tàn của chế độ cộng sản ở Liên Xô, mỗi khi gặp phải sự đối xử bất công của cảnh sát hay cán bộ đảng, người dân lại gọi họ là “phát xít”. Họ không nghĩ rằng phải gọi những kẻ đó theo đúng tên: tên của chúng là cộng sản.

Sau đó, cuộc sống trong khối xã hội chủ nghĩa không trở nên “tốt hơn”, “vui hơn”, như Stalin nói vào lúc cao trào của cuộc “đại thanh trừng”, mà trở nên buồn tẻ hơn và u ám hơn. Trước đó, sự suy thoái về đạo đức diễn ra một cách vô thức nhưng bây giờ, người ta đã dần nhận thức được bản chất vấn đề. Trước đó, nhân dân làm điều ác nhưng lại nghĩ rằng đang làm việc thiện; nay thì họ biết họ đang làm gì. Người ta tiếp tục tố giác, tiếp tục ăn cắp, tiếp tục luồn cúi nhưng họ đã biết xấu hổ. Khác với chế độ Quốc xã, cộng sản không che giấu tội lỗi, nó tuyên bố công khai việc mình làm và kêu gọi dân chúng tham gia. Mỗi một vụ kết án đều có các cuộc mít tinh ủng hộ. Tội nhân bị đồng chí, bạn bè, vợ con công khai nguyền rủa. Tất cả đều phục tùng nghi lễ vì sợ và vì tư lợi. Những anh hùng lao động thời kỳ đầu chỉ là yếu tố trang trí, thực ra lại là những kẻ lười biếng, quỵ lụy, một người Xô Viết ngu độn. Phụ nữ bắt đầu căm thù đàn ông, trẻ con căm thù cha mẹ vì chúng cảm thấy rằng chúng cũng sẽ trở thành những người như thế.

Giai đoạn cuối cùng đã được các nhà văn thời kỳ cáo chung của chế độ cộng sản như Dinoviev, Erofeev miêu tả rất rõ. Tuyệt vọng và coi thường chính mình là tình cảm phổ biến nhất. Người ta chỉ còn mỗi một cách là sử dụng các tiện nghi mà chế độ cho phép, đấy là sự vô trách nhiệm, ăn bám và sống lay lắt qua ngày. Người ta không còn phải ứng xử theo kiểu nước đôi nữa, họ cố gắng để không còn nghĩ đến bất cứ điều gì. Con người trở nên khép kín. Đa sầu đa cảm, self-pity là cách để kêu gọi người khác chứng kiến sự xuống cấp đạo đức của chính mình, họ hành động giống hệt những kẻ nghiện rượu. Cuộc chiến đấu tất cả chống lại tất cả vẫn diễn ra nhưng xung năng thì đã giảm đi nhiều. Zinoviev cho rằng con người xô viết (homo sovieticus) là sản phẩm của một sự đột biến không thể phục hồi. Có thể là ông đã lầm.

Không ai có thể tránh khỏi nền giáo dục dối trá. Các khuôn khổ của xã hội cũ cùng với tư hữu đã bị bãi bỏ và được thay bằng đủ các thứ trường học và cơ quan theo dõi: nông dân thì bị nông trang, công xã nhân dân (Trung Quốc), công nhân thì bị “công đoàn”, nhà văn và nghệ sĩ thì bị các “hội văn học nghệ thuật” theo dõi. Có thể mô tả lịch sử chế độ cộng sản ở các nước khác nhau như là một cuộc rượt đuổi không mệt mỏi nhằm thiết lập một sự kiểm soát toàn diện, còn từ phía các thần dân thì đấy là những cuộc tìm kiếm tuyệt vọng một chỗ ẩn náu, dù đấy chỉ là một góc nhỏ cho chính mình. Góc nhỏ thì bao giờ cũng có. Chính vì thế mà một số gia đình trí thức cũ ở Nga đã có thể gìn giữ được truyền thống của mình. Andrey Sakharov sinh ra trong một gia đình như thế. Trong các trường đại học tổng hợp, các khoa ngôn ngữ học cổ điển gần như vẫn được giữ nguyên như cũ. Trong các thánh đường bị nô dịch vẫn có bầu không khí trong lành để thở. Trong thời kỳ cuối của chế độ cộng sản, ta có thể thấy ở Moskva những nhóm người trẻ tuổi, những người, sau khi tiếp thu được tri thức và đạo đức, đã không đi làm, không giành một chức vụ nào, họ sống tự do, cố gắng hạn chế tiếp xúc với môi trường Xô viết. Họ đã giữ như vậy cho đến ngày chế độ cáo chung.

Trong đế chế Liên Xô, công tác cải tạo cộng sản dừng lại trước ngưỡng cửa nhà tù. Nếu những người Quốc xã xem việc cải đạo là không thể xảy ra thì những người cộng sản, đơn giản, lại từ chối không cho các tù nhân cải sang đạo của mình. Họ từ chối một cách kiên quyết đến nỗi dù đã xảy ra biết bao nhiêu chuyện kinh hoàng, Solzhenitsyn vẫn khẳng định rằng nhà tù là nơi có tự do tư tưởng và trong sạch về lương tâm. Ngược lại, chế độ cộng sản Á châu lại biến nhà tù thành trường học. Chính quyền ghi nhận thành tích học tập của từng trại viên. Chỉ có những người chết hoặc đã được cải hoá mới được ra khỏi nhà tù mà thôi.


Đánh giá

Với quan điểm lịch sử như vậy, có thể so sánh sự tàn phá về mặt đạo đức mà chủ nghĩa Quốc xã và chủ nghĩa cộng sản đã gây ra trong thế kỷ vừa qua.

Tôi quan niệm sự tàn phá về mặt đạo đức không phải là sự phóng đãng mà từ xa xưa, những người già đã từng phàn nàn khi quan sát đức hạnh của giới trẻ. Tôi cũng không muốn so sánh thế kỷ này với những thế kỷ trước. Không có một cơ sở triết học nào để nói rằng người ngày xưa thì tốt hơn hay xấu hơn hiện nay. Nhưng rõ ràng là chủ nghĩa Quốc xã và chủ nghĩa cộng sản đã quyết định làm ngược và làm thay đổi cả các nguyên tắc đạo đức, thay đổi nhận thức về thiện - ác. Vì lý do đó mà họ đã làm nhiều việc mà kinh nghiệm của loài người chưa từng biết đến.

Mặc dù chủ nghĩa Quốc xã đã thực hiện những tội ác mà chủ nghĩa cộng sản có thể không so sánh được nhưng phải nói rằng sự tàn phá về mặt đạo đức của chủ nghĩa cộng sản thì sâu hơn và rộng hơn nhiều. Có hai lý do:

Thứ nhất, toàn dân phải học các nguyên tắc đạo đức mới. Các chứng cớ đã nói với ta rằng đây là sự cải đạo bắt buộc, đấy là sự áp bức nặng nề nhất, khó chịu nhất, so với nó thì tất cả những thứ khác: sự thiếu vắng tự do chính trị và dân sự, việc theo dõi của cảnh sát, sự đàn áp về thể xác và kể cả nỗi sợ hãi, đều không là gì so với nền giáo dục bắt buộc đó. Nó có thể làm người ta phát điên vì nó trái ngược hẳn với các sự kiện rõ ràng, trái ngược hẳn các sự kiện có thể cảm thấy được. Và cuối cùng, tất cả các “biện pháp” và “cơ quan” đều bị nó khống chế. Chủ nghĩa cộng sản có thời gian tồn tại lâu hơn chủ nghĩa Quốc xã cho nên nền giáo dục này đã hoàn thành nhiệm vụ mà nó đặt ra. Sau khi sụp đổ, nó đã để lại một xã hội đầy thương tích, để lại những tâm hồn bị đầu độc khó thanh tẩy hơn là ở nước Đức mà sau một giai đoạn vong thân tạm thời, đất nước này đã thoát ra khỏi cơn ác mộng, sẵn sàng lao động, sẵn sàng sám hối.

Thứ hai, vì có sự lẫn lộn thâm căn cố đế giữa đạo đức vẫn được mọi người thừa nhận và đạo đức cộng sản: cái sau ẩn náu sau cái trước, sống ký sinh vào cái trước, giết chết cái trước, như bệnh hoại thư, dùng cái trước làm phương tiện truyền bệnh của mình. Đây là một thí dụ: Trong một cuộc tranh luận sau khi xuất bản Cuốn sách đen về chủ nghĩa cộng sản, tác giả của những bài xã luận trên tờ Humanité đã tuyên bố trên truyền hình rằng 85 triệu người bị giết hại không hề làm lu mờ lý tưởng cộng sản; đấy chỉ là kết quả của những sự lệch lạc rất đáng tiếc mà thôi. Sau Oswiecim, ông ta tuyên bố, không thể là đảng viên Quốc xã được nữa, nhưng sau những trại tù của Liên Xô thì người ta vẫn có thể là đảng viên cộng sản được. Con người này, lúc đó vẫn còn tỉnh táo, không biết rằng ông ta đã tự ký cho mình bản án tử hình khi nói như thế. Ông ta không nhận ra rằng lý tưởng cộng sản đã đánh mất hoàn toàn nguyên tắc thực tiễn và cơ sở đạo đức đến nỗi trong thực tế, nó vẫn còn sống được sau khi đã để lại trên đường đi của nó 85 triệu xác chết, trong khi lý tưởng Quốc xã đã sụp đổ dưới sức nặng của chính những xác chết do nó tạo ra. Ông ta đã nói những lời lẽ khủng khiếp như thế trong khi nghĩ rằng mình là một người trung thực, một người trung thành với lý tưởng, một người không khoan nhượng. Chủ nghĩa cộng sản tha hoá hơn chủ nghĩa Quốc xã vì nó không bảo người ta chấp nhận một cách có ý thức tư cách của kẻ làm điều ác nhưng nó lại lợi dụng tinh thần công bằng và bác ái thịnh hành trên khắp hành tinh để truyền bá cái ác. Tất cả các thí nghiệm của cộng sản đều bắt đầu bằng sự trong trắng, hồn nhiên.

Bản tiếng Việt © 2007 talawas
--------------------------------------------------------------------------------
[1]Scylla và Charibdys là hai quái vật trong thần thoại Hy Lạp, sống trên hai bờ vịnh hẹp, chuyên giết hại những người đi qua eo biển này.
[2]Eichmann (1906-62), một tội phạm chiến tranh, hoạt động trong lực lượng SS từ năm 1933, năm 1937 cầm đầu Phòng xử lý vấn đề Do Thái, sau Chiến tranh thế giới thứ II chạy sang Argentina. Bị tình báo Israel bắt và bị tử hình năm 1962.


Nguồn: Dịch từ bản tiếng Nga, МИК – Русская мысль; Москва-Париж, 2000